Hình ảnh trang
PDF
ePub

tất phúc dã, bất tất chiếu dã, tương luân tư mịch một, nhập ư hôn mai ly my, nhi bất khả bạt hỹ. Chư hầu chi vô Vương, diệc do thị dã.

Vương giả phụng nhược thiên đạo, thụ vương hậu quân công. Vương kỳ Thiên lý hoàn liệt ngũ phục, phương bá liên soái, các cử kỳ chức, sở dĩ tôn Trung Quốc nhi ngự tứ di dã. Chư hầu tự thích kỷ sự, bất tri hữu Vương, tắc Di Địch hoạt hạ, bất tri hữu chư hầu. Thử nãi lý thế tất nhiên. Phàm Bá phụng mệnh dĩ vãng, nhung nhân phu chi dĩ quy. Chư hầu viết: Thử Thiên tử chi Đại phu dã, ư ngô hà tổn. Nhung nhân viết: Ngô năng chấp Thiên tử chi Đại phu hỹ, ư chư hầu hà hữu? Toại chí Ngô, Sở bằng lăng, Trung Quốc cơ vi tả nhẫm. Thị chư hầu ty Vương thất, chỉ túc dĩ tự ty nh.

Kinh thư vu Sở Khâu, bất viết vu Vệ giả, thông tội chư hầu dã. Thử phù tử chi sở dĩ đại hoàn văn chi công. Hậu thế Xuân Thu chi nghĩa bất minh, Trung Quốc toại luân ư di địch. Kim nhân trường khu nhập biện. Tự hà dĩ bắc, vô năng ngự chi, cập Lỗ Tống nhị đế, nãi viết nam triều khả vị vô nhân. Thanh thế tổ tự liệu thẩm nhập tử hình quan, trục lý tự thành. Minh Ngô Tam Quế trấn Cửu Biên, toa quan thành bại, cập kỳ cứ yên xưng đế, nãi thuỷ hưng sư cần vương, vô cứu sự, thích dĩ tự tệ. Thánh nhân vi vạn thế lự, khởi bất thâm thiết trước minh đã tai!

[Kinh văn]: Rợ Nhung đánh Phàm Bá ở Sở Khâu bắt đem về.

Công Dương: Tại sao nói là “đánh”? Tức là bắt được Phàm Bá vậy. Cốc Lương: Rợ Nhung tức là nước Vệ. Coi Vệ là rợ Nhung, vì Vệ đánh bắt sứ giả của Thiên tử.

Quản kiến: Chư hầu không coi có vua nhà Chu nữa, cho nên rợ Nhung cũng bắt chước theo. Phàm Bá có hiềm khích với rợ Nhung, nhân đi qua nước Vệ, rợ Nhung liền bắt ngay. Rợ Nhung có lẽ biết rõ chư hầu sẽ không đánh báo thù cho vua nhà Chu.

Than ôi! Chư hầu lấn lướt Thiên tử, chẳng qua là coi thường Thiên tử suy yếu, không chế ngự nổi họ mà thôi. Không biết rằng, nếu không có trời che, muôn vật sao có thể sinh sôi? Không có mặt trời soi sáng, muôn vật sao phát triển được? Không có trời, không có mặt trời, là bảo rằng không cần che, không cần soi sáng, nếu như thế thì muôn vật sẽ chìm

đắm tiêu tan vào cõi tối tăm mông muội, không thể nào ngóc đầu lên được. Chư hầu mà coi không có Thiên vương thì cũng sẽ như vậy đấy!

(2)

Đấng Vương giả thuận theo đạo trời đặt ra Vương Hậu, Quân Công. Vương kỳ ngàn dặm vây lấy ngũ phục, phương bá liên soái, người nào giữ chức nấy, như vậy cốt là để tôn Trung Quốc và chống Tứ Di. Nếu chư hầu chỉ biết mình, không biết có Thiên vương nữa, thì rợ Di Địch ăn cướp Hoa Hạ, nó cũng không biết có chư hầu nữa. Đó là cái lý, cái thế tất nhiên phải như vậy. Phàm Bá vâng lệnh Thiên tử đến thăm hỏi, rợ Nhung bắt sống đem về, chư hầu nói rằng: “Đó là Đại phu của Thiên tử, có hại gì đến ta.” Người của rợ Nhung nói rằng: “Ta có thể bắt Đại phu của Thiên tử, vậy thì đối với chư hầu ta có xá gì.” Dẫn đến nước Ngô, nước Sở bị lấn lướt, Trung Quốc gần như biến thành mọi rợ. Cho nên, chư hầu mà khinh Thiên vương, tức là tự khinh mình vậy.

(4)

Kinh văn chép “Rợ Nhung bắt Phàm Bá ở Sở Khâu,” không chép rằng bắt ở nước Vệ là vì sao? Là tỏ ý trách tội tất cả các nước chư hầu. Chính vì vậy, Khổng Tử mới khen Tề Hoàn, Tấn Văn có công lớn. Đời sau, nghĩa Kinh Xuân Thu không sáng tỏ, Trung Quốc bị chìm đắm vào vòng Di Địch: Người Kim kéo quận thẳng tiến vào đất Biện, từ sông Hoàng Hà trở về phía bắc không ai chống chọi lại được, họ bắt sống hai vua nhà Tống mà nói: “Triều đình nhà Tống có thể nói là không có người.” Thanh Thế Tổ từ đất Liêu Thẩm vào cửa ải Tử Kinh đuổi Lý Tự Thành, Ngô Tam Quế nhà Minh... trấn giữ vùng Cửu biên, chỉ ngồi xem thành bại, đến khi quân Thanh chiếm giữ Yên Kinh xưng đế, lúc ấy mới nổi quân cần vương, thì không kịp, đành tự vẫn. Thánh nhân lo cho muôn đời, há không phải sâu xa, rõ rệt đó sao?

CHÚ THÍCH:

(11)

1. Sở Khâu: Nay là Sở Khâu Đình, huyện Tào, tỉnh Sơn Đông, thời Xuân Thu thuộc nước Vệ.

Bản dịch Nôm dịch: “Rợ Nhung đón đường quan Phàm Bá ở đất Sở nước Vệ ngầm đem về.”

2. Ngũ phục: Tên vùng đất gần kinh đô nhất đến xa kinh đô nhất. Mỗi vùng rộng 500 dặm, lần lượt gọi là: Điện, hầu, tuy, yêu, hoang.

3. Phương bá liên soái: Phương bá là bá chủ chư hầu một phương. Liên soái đứng đầu mười nước chư hầu.

4. Khổng Tử khen Quản Trọng: “Quản Trọng làm tể tướng cho Hoàn Công, bá chủ chư hầu, thống nhất thiên hạ, đến nay dân vẫn chịu ơn. Nếu không có Quản Trọng thì có lẽ phải cắt tóc, mặc áo hở vai bên tả như tục mọi rợ rồi vậy”(Luận Ngữ, thiên Hiếu văn).

5. Kim: Tên một triều đại do tộc Nữ Chân lập ra ở phía bắc Trung Quốc, vốn phụ thuộc vào nước Liêu. Thời Tống Huy Tông, Kim cường thịnh lên, vua Kim là Cốt Đa xưng đế, đóng đô ở Hội Ninh (thuộc tỉnh Cát Lâm ngày nay), đặt quốc hiệu là Kim, diệt Liêu, phá Tống, năm 1126, tướng Kim là Niêm Hãm Cán Ly Phầu đem quân vây Biện Kinh, bắt hai cha con vua Tống là Huy Tông và Khâm Tông đem về phương bắc. Biện Kinh nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam.

6. Việc này chép ở Tống sử.

7. Thanh Thế Tổ: Vua sáng nghiệp nhà Thanh, họ Ái Tân Giác La, tên Phúc Lâm, lên ngôi ở Mãn Châu, đem quân phá Lý Tự Thành, lấy Vân Kinh. Sau lấy Trung Quốc lập ra nhà Thanh, ở ngôi mười tám năm.

8. Tử Kinh: Tên cửa ải trên đỉnh Tử Kinh lĩnh, thuộc huyện Dịch, tỉnh Trực Lộ cũ.

9. Lý Tự Thành: Người Mễ Chi, Thiểm Tây, cầm đầu cuộc khởi nghĩa nông dân lớn cuối đời Minh. Năm Sùng Trinh thứ bảy, Thành xưng vương ở Tây An, đặt niên hiệu là Đại Thuận, rồi đem quân về đông vây hãm kinh thành. Trang Liệt Đế phải tự vẫn. Ngô Tam Quế nhờ quân Thanh vào phá. Quân Thanh đuổi Thành về tây, đến núi Cửu Cung, Thành bị bắt, tự tử chết.

10. Ngô Tam Quế: Người Cao Thùy đời Minh, làm chức Tổng binh thời Sùng Trinh, trấn giữ Sơn Hải Quan. Lý Tự Thành vây hãm Yên Kinh, Quế dẫn quân Thanh vào cửa quan phá Lý Tự Thành. Sau khi Thanh Thế Tổ phá xong Lý Tự Thành chiếm Yên Kinh, lập nhà Thanh, Quế nổi quân cần vương chống nhà Thanh ở Vân Nam, nhưng thất bại.

11. Cửu biên (chín vùng biên giới): Nhà Minh chia: Liêu Đông, Tô Châu, Tuyên Phủ, Đại Đông, Sơn Tây, Diên Tuy, Ninh Hạ, Cố Nguyên, Cam Túc gọi là “cửu biên,” ở những nơi ấy, đặt trọng binh, cắt đại tướng thống lĩnh. Trong bài này dùng để chỉ: Ngô Tam Quế vốn giữ chức Tổng binh nhà Minh trấn thủ Sơn Hải Quan được phong tước Bình Tây Bá, trong tay nắm giữ trọng binh.

[隱公]八年

春,宋公、衛侯遇于垂。

左傳: 齊侯將平宋、衛。

程子曰:宋忌鄭之深,故與鄭卒不成好。

管見:子貢觀於蜡曰:一國之人皆若狂。春秋之盟會遇,蜡 之狂也。先王制禮,交際有時,泛應有節,要質有信,豈筍焉 而已哉。東遷以來,諸侯入於醉夢而不省。乍讎忽親,則盟以 結之;乍好忽惡,則會以謀之。挾此圖彼,則陽遇以就之。宋 始與鄭盟宿即與衛遇而謀鄭。齊本非絕鄭,陽為平宋衛以求 之。互相驅策,交相欺騙。大要謀勝者奪先利,雄者占首功。 雖相交結,全無信義,特借先王典禮,以行己私。

夫!禮以治情修義,尚讓去爭。忠信薄而情文繁,遂至為魚 兔筌蹄,則假之者之罪也。子曰:末如之何者,蓋亦末如之何也 己。聖經於列國之盟會遇,不厭書之,蓋為世道晦冥省覺。

LẨN CÔNG] BÁT NIÊN

Xuân, Tổng Công, Vệ Hầu ngộ vu Thuỳ.

Tả truyện: Tề Hầu tướng bình Tống, Vệ.

Trình Tử viết: Tống kỵ Trịnh chi thâm, cố dữ Trịnh tốt bất thành hảo.

Quản kiến: Tử Cống quan ư lạp viết: Nhất quốc chi nhân giai nhược cuồng. Xuân Thu chi minh hội ngộ, lạp chi cuồng dã. Tiên vương chế lễ, Giao tế hữu thời, phiếm ưng hữu tiết, yếu chất hữu tín, khởi cẩu yên nhi dĩ tại. Đông thiên dĩ lai, chư hầu nhập ư tuý mộng nhi bất tỉnh. Sạ thù hốt thân, tắc minh dĩ kết chi; sạ hảo hốt ác, tắc hội dĩ mưu chi. Hiệp

thử đồ bỉ, tắc dương ngộ dĩ tựu chi. Tống thuỷ dữ trịnh minh túc tức dữ vệ ngộ nhi mưu Trịnh. Tề bản phi tuyệt Trịnh, dương vi bình Tống Vệ dĩ cầu ch. Hỗ tương khu sách, giao tương khi biên. Đại yếu mưu thắng giả đoạt tiên lợi, lực hùng giả chiếm thủ công. Tuy tương giao kết, toàn vô tín nghĩa, đặc tá Tiên vương điển lễ, dĩ hành kỷ tư.

Phù! Lễ dĩ trì tình tu nghĩa, thượng nhượng khứ tranh. Trung tín bạc nhi tình văn phồn, toại chí vi ngư thố thuyên đề, tắc giả chi giả chi tội dã. Tử viết: Mạt như chi hà giả, cái diệc mạt như chị hà dã dĩ. Thánh kinh ư liệt quốc chi minh hội ngộ, bất yếm thư chị, cái vị thế đạo hối minh tỉnh giác.

LẨN CÔNG] NĂM THỨ TÁM

[Kinh văn]: Mùa xuân, quan Tống Công, quan Vệ Hầu gặp nhau ở đất Thùy.

Tả truyện: Vì Tề Hầu sắp hòa hiếu với Tống, Vệ.

Trình Tử nói: Tống ghét Trịnh sâu sắc, cho nên không thể cùng Trịnh kết tình hòa hiếu.

(1)

(2)

Quản kiến: Tử Cống xem lễ Sạ” nói: “Người trong cả nước đều như điên như cuồng.” Việc gặp gỡ ăn thề của đời Xuân Thu cũng điên cuồng như trong lễ Sạ vậy. Tiên vương đặt ra lễ, để giao tế có thời, thực thi có mức, điều cốt yếu là phải có lòng tin, há để bừa bãi thôi đâu. Nhà Chu từ khi dời đô sang bên đông đến nay, chư hầu chìm vào giấc mộng say không tỉnh. Đang thù ghét nhau bỗng thân nhau thì ăn thề để giao kết; đang ưa nhau bỗng ghét nhau thì ăn thề để mưu tính, câu kết với người này, mưu đồ với kẻ kia, giả vờ gặp nhau để đạt mục đích. Tống vừa mới ăn thề với Trịnh ăn ở đất Túc,... thì đã gặp gỡ với Vệ mưu đồ đánh Trịnh. Tề vốn không có ý tuyệt giao với Trịnh, chỉ giả vờ hòa với Tống, Vệ để lôi kéo Trịnh. Lợi dụng lẫn nhau, lừa dối lẫn nhau. Tóm lại, người nào mưu cao thì cướp được lợi trước, kẻ nào mạnh sức thì chiếm được công đầu. Tuy cùng giao kết mà tuyệt nhiên không có tín nghĩa gì, chỉ mượn điển lễ Thiên vương làm lợi cho riêng mình.

Than ôi! Lễ là để ngăn ngừa dục vọng, giữ gìn lẽ phải, chuộng lòng từ nhượng, bỏ mối tranh giành. Nếu lòng trung tín bạc bẽo mà tình tô vẽ

« TrướcTiếp tục »