Hình ảnh trang
PDF
ePub

Tề phi toàn vô hiền phụ. Trang Khương, cộng Khương thử hà đẳng nhân? Thiên cổ sinh nhất dâm phụ, dĩ tặc lỗ hoàn, đại vi Ẩn Công báo thù. Thử khởi ý liệu sử cập? Lã Bố dĩ nữ hôn Viên Thiệu, dục kết vi viện, nhi sát bố giả, nãi xuất vụ mưu hôn chi Trần Đăng phụ tử. Nhiên mưu tuy tại Trần Đăng, nhi thực Đổng Trác, Đinh Nguyên sách mệnh vu Bố dã.

Thiên đạo chiêu chiêu, khả bất uý tai! Dịch viết hôn cấu trí khấu. Phù! Đức chi hữu tý, hoạch lệ vu thiên, tắc hôn cấu dã khấu dã, hà tất Hồ Việt nãi năng thao đao tương hướng? Kinh thư hội vu Luy, chỉ hoa thuỷ dã, diệc cẩn nghiêm chi ý yên.

[Kinh văn]: Hoàn Công họp với quan Tề Hầu ở đất Luy.

Tả truyện: Vì Lỗ Hoàn Công thành hôn ở Tề.

Quản kiến: Xưa nay kẻ gian tặc mưu tính làm việc gì, thường hay xảy ra những việc ngoài ý muốn. Kết hôn với con gái nước Tề để củng cố địa vị, là trong dự kiến, vì kết hôn với con gái nước Tề mà bỏ mạng, là việc ngoài ý muốn. Con người ta không thể khôn khéo hơn trời, vì vậy cũng chỉ nên hết sức làm điều thiện mà thôi.

(1)

Nước Tề không phải không có những người vợ hiền. Bà Trang Khương, bà Cung Khương là người như thế nào? Thế mà trời sinh ra một người đàn bà dâm loạn, để làm hại Lỗ Hoàn Công, báo thù cho Lỗ Ẩn Công. Điều đó làm sao có thể liệu tính được? Lã Bố đem con gái gả cho Viên Thiệu là để kết bè đảng hòng có kẻ giúp mình, thế mà người giết Lã Bố lại chính là cha con Trần Đăng, những người chủ mưu trong việc hôn nhân ấy. Tuy là mưu của Trần Đăng, nhưng thực ra là do vong hồn Đổng Trác, Đinh Nguyên đòi Lã Bố phải đền mạng.

Đạo trời sáng rõ há chẳng đáng sợ lắm sao! Kinh Dịch nói: “Việc hôn nhân đem lại điều thù oán.” Than ôi! Đức xấu xa phải tội với trời, thế thì từ việc hôn nhân mà thành ra thù oán, đâu phải cứ kẻ Hồ người Việt mới cầm dao đánh nhau. Kinh văn chép: Họp với Tề Hầu ở đất Luy, là ghi rõ tai họa bắt đầu từ đó, và cũng có ý nghiêm khắc cẩn trọng.

CHÚ THÍCH:

1. Trang Khương: Con gái nước Tề, vợ cả Vệ Trang Công, là người hiền đức bị chồng bỏ không hề oán giận (thơ Lục y, Kinh Thi).

2. Cung Khương: Vợ Thế tử Cung Bá nước Vệ, chồng chết sớm, bà thủ tiết thờ chồng (thơ Bách, Kinh Thi).

夏,齊侯、衛侯胥命于蒲。

左傳:不盟也。

公羊:相命也。古者不盟,結言而退。

穀梁: 相命近古也。是必一人先,其以相言之,何也?不

以齊命衛也。

管見:衛久黨宋。殤公弒,莊公立,宋、鄭之憾解,而 齊鄭之交深。衛乃與齊合而相命也。於是東州諸侯,無有分 黨,小伯規模,至此粗定。其不盟者,合不在盟也。勢使之 也,其胥命者,非相命之為伯,不過結言成禮而已。雖所命之 言無聞,而齊僖糾合氣概,亦可想見。

當時盟詛成俗,非但諸侯要盟,鄭伯至詛射考叔者,愚鄙 之甚!齊侯乃能拔出眾見,不與衛盟而相命,春秋所以善之。 高氏曰:所謂彼善於此者是矣。雖然命不出於天子,而私相 告諭,豈非言不順乎?曰胥曰命,善之中有惡存焉。學者以意 推之可也。

Hạ, Tề Hầu, Vệ Hầu tư mệnh vu Bồ.

Tả truyện: Bất minh dã.

Công Dương: Tương mệnh dã. Cổ giả bất minh, kết ngôn nhi thoái.

Cốc Lương: Tương mệnh cận cổ dã. Thị tất nhất nhân tiên, kỳ di

tương ngôn chi, hà dã? Bất đĩ Tề mệnh Vệ dã.

Quản kiến: Vệ cửu đảng Tống. Thương Công thí, Trang Công lập, Tống, Trịnh chi hám giải, nhi Tề Trịnh chi giao thâm. Vệ nãi dĩ Tề hợp nhi tương mệnh dã. Ư thị Đông Châu chư hầu, vô hữu phân đảng,

tiểu bá quy mô, chí thử thô định. Kỳ bất minh giả, hợp bất tại minh dã. Thế sử chi dã, kỳ tư mệnh giả, phi tương mệnh chi vi bá, bất quá kết ngôn thành lễ nhi dĩ. Tuy sở mệnh chi ngôn vô văn, nhi Tề Hy củ hợp khí khái, diệc khả tưởng kiến.

Đương thời minh tổ thành tục, phi đản chư hầu yếu minh, Trịnh Bá chí tổ xạ Khảo Thúc giả, ngu bỉ chi thậm! Tề Hầu nãi năng bạt xuất chúng kiến, bất dĩ Vệ minh nhi tương mệnh, Xuân Thu sở dĩ thiện chi. Cao Thị viết: Sở vị bỉ thiện ư thử giả thị hỹ. Tuy nhiên mệnh bất xuất ư Thiên tử, nhi tư tương các dụ, khởi phi ngôn bất thuận hồ? Viết tư viết mệnh, thiện chi trung hữu ác tồn yên. Học giả dĩ ý suy chi khả dã.

[Kinh văn]: Mùa hạ, quan Tề Hầu, quan Vệ Hầu, cùng nhau giao ước với nhau ở đất Bồ nước Vệ.

Tả truyện: Không làm lễ ăn thề.

(1)

Công Dương: Cùng nhau giao ước. Đời xưa không làm lễ ăn thề, chỉ giao kết bằng lời, rồi trở về.

Cốc Lương: Kết lời giao ước là gần giống với đời xưa. Như vậy tất phải có người nói trước, tại sao đây lại chép là cùng nhau nói? Nghĩa là không phải Tề Hầu ra lệnh cho Vệ Hầu.

Quản kiến: Nước Vệ kết bè đảng với nước Tống đã lâu. Từ khi Thương Công bị giết, Trang Công lên ngôi, thì sự oán hờn giữa Tống với Trịnh đã được hòa giải, và sự giao hảo của Tề và Trịnh càng bền chặt. Vệ bèn cùng Tề hội họp kết lời giao ước. Từ đó các nước chư hầu ở Đông Châu, không chia bè đảng, quy mô tiểu bá đến đây tạm ổn. Không ăn thề tức là hẹn ước mà không uống máu để thề, tình thế lúc đó buộc phải như vậy. Về việc kết giao với nhau bằng lời, không phải là để suy tôn một nước làm bá chủ, chẳng qua kết lời giao ước thành lễ mà thôi. Tuy lời giao ước ấy không được biết, nhưng khí phách hợp nhất các nước chư hầu của Tề Hy Công cũng có thể suy ra được.

(2)

Thời ấy, lễ ăn thề đã thành lệ, không chỉ chư hầu ăn thề với nhau, mà Trịnh Bá còn làm lễ để nguyền rủa kẻ nào bắn Dĩnh Khảo Thúc, thật là ngu xuẩn quá lắm! Tề Hầu là người có trí lược hơn hẳn mọi người, không cùng Vệ Hầu uống máu ăn thề mà chỉ cùng nhau kết lời giao ước, cho nên Kinh Xuân Thu khen về việc ấy. Họ Cao nói: Cái gọi là việc này

hơn việc kia là như vậy đó. Tuy việc kết lời giao ước được khen, nhưng mệnh lệnh không do Thiên tử, mà tự ý ra cáo dụ với nhau, há chẳng phải là nói không thuận lẽ sao? Kinh văn chép: “Kết lời giao ước với nhau” là trong khen có chê vậy. Các bậc học giả từ ý ấy mà suy ra sẽ rõ.

CHÚ THÍCH:

1. Bản dịch Nôm dịch: “Mùa hạ, quan Tề Hầu quan Vệ Hầu lấy lời nói cùng giới mệnh của nhau chưng đất Bồ nước Vệ.”

2. Tề Hầu, Trịnh Bá đem quân vào nước Hứa, Đĩnh Khảo Thúc cầm cờ của Trịnh Bá leo lên mặt thành. Tư Đô tranh Công, ở phía sau dùng tên bắn ngã Đĩnh Khảo Thúc, Trịnh Bá liền làm lễ nguyền rủa kẻ nào bắn Khảo Thúc. (Tả truyện, Ẩn Công năm thứ 11).

六月,公會杞侯于郕。

左傳:杞求成也。

管見: 杞自為杞,公作紀非。杞小國,求親於魯。二年 朝,此年會,蓋有所逼,而倚魯以為援也。經於入杞之文, 不言遂,亦不言師,正不知其何國入之。闕之可也,安得言杞 求成乎?

Lục nguyệt, Công hội Kỷ Hầu vu Thành.

Tả truyện: Kỷ cầu Thành dã.

Quản kiến: Kỷ tự vi Kỷ, Công tác Kỷ phi. Kỷ tiểu quốc, cầu thân ư Lỗ. Nhị niên triều, thử niên hội, cái hữu sở bức, nhi ỷ Lỗ dĩ vi viện dã. Kinh ư nhập Kỷ chi văn, bất ngôn toại, diệc bất ngôn sư, chính bất tri kỳ hà quốc nhập chi. Khuyết chi khủ dã, an đắc ngôn Kỷ cầu Thành hồ?

[Kinh văn]: Tháng 6, Hoàn Công họp với quan Kỷ Hầu ở đất Thành.

Tả truyện: Vì có việc nước Kỷ đến cầu hòa.

Quản kiến: Nước Kỷ phải viết là chữ t (Kỷ) Công Dương chép chữ * (Kỷ) là sai. Kỷ là một nước nhỏ, muốn thân với Lỗ. Năm thứ 2 đến chầu, năm nay lại đến hội họp, bởi lẽ bị nước khác bức hiếp, cho nên muốn

dựa vào Lỗ để nhờ cứu viện. Kinh văn chép “vào nước Kỷ” (nhập Kỷ) không chép chữ “rồi” (toại), cũng không chép “đem quân vào” (suý sư), vì thế không rõ nước nào là nước Kỷ. Chỗ này có thể để khuyết nghi, sao có thể nói “Kỷ đến cầu hòa” được?

秋,七月壬辰朔,日有食之既。

公羊:既,盡也。

穀梁:食正朔也。

管見:日君象也,萬國所同。是時周失其政,諸侯失其道, 篡弒相尋,陰謀者眾。日食之既,應不借矣。嘗觀明史,及國 史,明神宗萬曆,當本國莫福海、福源之時,史書日食朔日皆 合。其食甚數,則違常度矣。

清太祖哈刺哈奴,起兵圖倫城,稱帝改元,至世祖順治 卒,代明而有天下。本朝黎莊宗棲于漆馬江,起兵哀牢,至 世宗滅莫中興。天象之應,其在明、莫,毫髮不爽。然則普天 之下,同仰此日,有國者皆當克謹天戒。

或者乃謂天變不足畏。謂之何哉,此書在魯史,而其變

在天下也。聖人之敬天憂世,其旨淵乎!

Thu, thất nguyệt Nhâm Thìn sóc, nhật hữu thực chi ký.

Công Dương: Ký, tận dã.

Cốc Lương: Thực chính sóc dã.

Quản kiến: Nhật quân tượng dã, vạn quốc sở đồng. Thị thời Chu thất kỳ chính, chư hầu thất kỳ đạo, soán thí tượng tầm, âm mưu giả chúng. Nhật thực chi ký, ưng bất thế hỹ. Thường quan Minh sử, cập Quốc sử, Minh Thần Tông Vạn Lịch, đương bản quốc Mạc Phúc Hải, Phúc Nguyên chi thời, sử thư nhật thực sóc nhật giai hợp. Kỳ thực thậm số, tắc vi thường độ hỹ.

« TrướcTiếp tục »