Hình ảnh trang
PDF
ePub

夏,五月丁丑,烝。

公羊:譏亟也,

穀梁:瀆祀也。

管見: 月令孟冬之月大飲烝。此閉蟄之時也。馬獻禽祭

烝,不於亥月,而於子月,之皆為冬祭。此年既以子月烝,辰 月乃復烝,其為非時瀆禮,甚矣。故特起上文以見貶。

Hạ, ngũ nguyệt Đinh Sửu, Chưng.

Công Dương: Ky Cức dã,

Cốc Lương: Độc tự dã.

Quản kiến: Nguyệt lệnh mạnh đông chi nguyệt đại ẩm Chưng. Thử bé trập chi thời dã. Mã hiến cầm tế Chưng, bất ư Hợi nguyệt, nhi ư Tý nguyệt, chi giai vi đông tế. Thử niên ký dĩ Tý nguyệt Chưng, Thìn nguyệt nãi phục Chưng, kỳ vi phi thời độc lễ, thậm hỹ. Cố đặc khởi thượng văn dĩ kiến biếm.

[Kinh văn]: Mùa hạ, tháng 5 ngày Đinh Sửu, làm lễ tế Chưng.

Công Dương: Chê là tế luôn vậy.

Cốc Lương: Làm nhàm việc tế tự.

Quản kiến: Thiên Nguyện lệnh (Lễ Ký) có nói: Tháng mạnh đông (tháng 10) Thiên tử và chư hầu ăn yến uống rượu ở nhà Thái học, rồi mổ trâu để tế Chưng. Đó là mùa sâu bọ đã ẩn nằm ở dưới đất. Quan Tư mã dâng các loại cầm thú, làm lễ tế Chưng, không làm lễ vào tháng Hợi mà làm lễ vào tháng Tý, tóm lại đều là tế vào mùa Đông. Năm nay đã tế Chưng vào tháng Tý, đến tháng Thìn lại tế Chưng, vậy là không đúng thời, nhàm việc tế tự. Cho nên Kinh văn chép kỹ việc tế Chưng lần trước để tỏ ý chê trách.

CHÚ THÍCH:

(2)

(3)

1. Tháng Hợi: Là tháng 12 theo lịch nhà Chu, nhưng là tháng 10 theo lịch nhà Hạ (Âm lịch).

2. Tháng Tý: Là tháng Giêng theo lịch nhà Chu, nhưng là tháng 11 theo lịch nhà Hạ.

3. Tháng Thìn: Là tháng 5 theo lịch nhà Chu.

秋,伐邾。

陳氏曰:桓師非君將,皆不言大夫。

管見:公羊謂焚咸丘為邾邑。此復伐之,豈非以其小弱而

侮之耶?直書伐,桓公果於虐小矣。

Thu, phạt Châu.

Trần Thị viết: Hoàn sư phi quân tướng, giai bất ngôn Đại phu.

Quản kiến: Công Dương vị phần Hàm Khâu vi Chu ấp. Thử phục phạt chi, khởi phi dĩ kỳ tiểu nhược nhi vụ chi da? Trực thư phạt Châu, Hoàn Công quả ư ngược tiểu hỹ.

[Kinh văn]: Mùa thu, quân nước Lỗ đi đánh nước Châu.

Họ Trần nói: Quân nước Lỗ không phải do Hoàn Công làm tướng, nhưng đều không chép là Đại phu đi đánh để kết tội Hoàn Công.

Quản kiến: Công Dương chép rằng: Lỗ Hoàn Công đốt Hàm Khâu, vì Hàm Khâu là nước Châu. Nay lại đánh nước Châu, chẳng phải là thấy nước Châu bé nhỏ mà ăn hiếp sao? Kinh văn chép thẳng việc đánh nước Châu để tỏ rằng Hoàn Công tàn bạo đối với nước nhỏ.

冬,十月,雨雪。

公羊:譏記異也。

管見:此夏之八月也,是月白露為霜,而雪乃骤降。陽消

未盡,陰已乘之,咎可知矣。

Đông, thập nguyệt, vũ tuyết.

Công Dương: Ky ký dị dã.

Quản kiến: Thử hạ chi bát nguyệt dã, thị nguyệt bạch lộ vi sương,

nhi tuyết nãi sậu giáng. Dương tiêu vị tận, âm dĩ thặng chi, cữu khả tri kỹ.

[Kinh văn]: Mùa đông, tháng 10, mưa tuyết.

Công Dương: Chê, nên chép điềm lạ vậy.

Quản kiến: Tháng 10, nhà Chu tức tháng 8 nhà Hạ, về tháng ấy

có móc trắng làm thành sương, thế mà tuyết đã rơi xuống. Khí dương tiêu

chưa hết, khí âm đã lấn tới, thật là điềm xấu vậy.

祭公來遂逆王后于紀。

左傳:禮也。

公羊:大夫無遂,此其言何?使成乎我也。

管見:此昏議既成王,使祭公來命魯主其事,遂如紀而逆 后焉。是時典禮不明,天子婚諸侯,諸侯相為婚,大抵借婚姻 以通黨援,非以大昏為重,苟求成事而已。古者天子立后,以 率六宮,其屬有三夫人九嬪,二十七世婦,八十一御妻,聽天 下之内治,以明章婦順,故敬謹之至。納采問名,納吉納 徵,請期親逆,其别有六。然天子無敵,女家不敢當親逆之 禮。故使大臣親逆之。其在諸侯,或在王畿之內,皆逆止於 館。天子冤而親逆,有報期焉。此之逆,簡禮甚矣。聽其遂 者,天子之慢也;行於遂者,祭公之疏也。從其遂者,魯侯之 過也。此譏在遂事,若夫三公往逆,於禮不為失。后主六宮, 天子主六官,六官之長,以充六禮,有何不可。

後世宋朝立后,六禮使命,以同平章事充之。明朝以謹 身華蓋殿大學士充之,皆相也。重其事,故以重臣為之使。 胡氏謂:大夫可矣,何必三公。任之重,使之輕,若然大 昏為大,聖人何以示訓。公羊曰:成使乎我也,既成而後來 逆,乃為近理。豈有來使為媒,便往逆乎。竊考經文,媒議成 於家父, 來聘之時。祭公御命往迎,當往紀不當求魯。乃以求 魯為本事,而逆后遂之,則失矣。學者詳之。

Sái Công lai Toại nghịch Vương hậu vu Kỷ.

Tả truyện: Lễ đã.

Công Dương: Đại phu vô Toại, thử kỳ ngôn toại hà? Sử thành hồ ngã đã.

Quản kiến: Thử hôn nghị ký thành vương, sử Sái Công lai mệnh Lỗ chủ kỳ sự, Toại như Kỷ nhi nghịch Hậu yên. Thị thời điển lễ bất minh, Thiên tử hôn chư hầu, chư hầu tương vi hôn, đại để tá hôn nhân dĩ thông đảng viện, phi dĩ đại hôn vi trọng, cẩu cầu thành sự nhi dĩ. Cổ giả Thiên tử lập Hậu, dĩ suất lục cung, kỳ thuộc hữu tam phu nhân cửu tần, nhị thập thất thế phụ, bát thập nhất ngự thê, thính thiên hạ chi nội trị, dĩ minh chương phụ thuận, cố kính cẩn chi chí. Nạp Thái vấn Danh, nạp Cát nạp Trưng, thỉnh kỳ thân nghịch, kỳ biệt hữu lục. Nhiên Thiên tử vô địch, nữ gia bất cảm ng thân nghịch chi lễ. Cố sử đại thần thân nghịch chi. Kỳ tại chư hầu, hoặc tại vương kỳ chi nội, giai nghịch chỉ ư quán. Thiên tử oan nhi thân nghịch, hữu báo kỳ yên. Thử chi toại nghịch, giản lễ thậm kỹ. Thính kỳ toại giả, Thiên tử chi mạn dã; hành ư toại giả, Sái Công chi sơ dã. Tòng kỳ toại giả, Lỗ Hầu chi quá dã. Thử ky tại toại sự, nhược phù Tam công vãng nghịch, ư lễ bất vi thất. Hậu chủ lục cung, Thiên tử chủ lục quan, lục quan chi trưởng, dĩ sung lục lễ, hữu hà bất khả .

Hậu thế Tống triều lập Hậu, lục lễ sử mệnh, dĩ Đồng bình chương sự sung chi. Minh triều dĩ cẩn thân Hoa Cái điện Đại học sĩ sung chi, giai tương dã. Trọng kỳ sự, cố dĩ trọng thần vi chi sử.

Hồ Thị vị: Đại phu khả hỹ, hà tất Tam công. Nhậm chi trọng, sử chi khinh, nhược nhiên đại hôn vi đại, Thánh nhân hà dĩ thị huấn. Công Dương viết: Thành sử hồ ngã dã, ký thành nhi hậu lai nghịch, nãi vi cận lý. Khởi hữu lai sử vi môi, tiện vãng nghịch hồ. Thiết khảo Kinh văn, môi nghị thành ư Gia Phủ, lại sinh chi thời. Sái Công ngự mệnh vũng nghênh đương vãng Ký bất đương cầu Lỗ. Nãi dĩ cầu Lỗ vi bản sự, nhi nghịch Hậu toại chi, tắc thất hỹ. Học giả tường chi.

[Kinh văn]: Quan Sái Công đến nước Lỗ, rồi sang nước Kỷ đón Vương hậu.

(1)

Tả truyện: Đó là làm theo lễ.

Công Dương: Quan Đại phu không được phép nhân việc nọ làm việc kia, đây chép chữ rồi (toại) là nghĩa làm sao? Là có ý nói việc đã bàn xong, liền sai sứ đến nước Lỗ

.(2)

(3)

Quản kiến: Đây là việc hôn nhân đã bàn bạc xong, Thiên vương sai Sái Công đến Lỗ, bảo Lỗ làm chủ hôn, rồi từ Lỗ đến nước Kỷ đón Vương hậu. Thời ấy lễ nghi không rõ ràng, Thiên tử kết hôn với chư hầu, chư hầu kết hôn với nhau, nói chung chỉ mượn việc hôn nhân để lôi kéo bè đảng, nên không coi trọng hôn lễ, cho nên chỉ làm qua loa cho được việc mà thôi. Đời xưa, khi Thiên tử lập Hoàng hậu để trông coi sáu cung bao gồm: Ba phu nhân, chín cung tần, hai mươi bảy thế phụ và tám mươi mốt ngự thê, trông coi việc công, dung, ngôn, hạnh trong thiên hạ, để làm sáng đạo thuận tòng, cho nên phải rất cẩn trọng về việc đó. Về hôn lễ bao gồm sáu lễ là: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp trưng, Thỉnh kỳ, Thân nghênh. Nhưng Thiên tử là bậc chí tôn, nhà gái không giám đòi hỏi đích thân nhà vua phải đi đón, nên chỉ sai đại thần đi thay. Nhà gái ở các nước chư hầu hay ở trong kinh kỳ, thì đón về để ở cung quán. Thiên tử đội mũ miện thân hành ra đón, có bảo cho biết trước. Đây chép rồi đi đón (toại nghịch) chứng tỏ bớt rất nhiều lễ vậy. Nghe theo việc đã rồi, là sự khinh suất của Thiên tử; thi hành việc đã rồi, là sự sơ suất của Sái Công. Còn chạy theo việc đã rồi, là cái lỗi của Lỗ Hầu. Ở đây Kinh văn tỏ ý chê việc đã rồi, như vị Tam công đó đón Vương hậu, với lễ không phải là sai. Bởi vì Vương hậu là chủ sáu cung, Thiên tử là chủ sáu quan, dùng người đứng đầu sáu quan đi đón, để làm đủ việc cuối cùng của hôn lễ thì có gì là không được.

Đời sau, nhà Tống lập Hoàng hậu, sứ giả phụ trách việc hôn lễ là do chức Đồng bình chương sự. Triều Minh thì do chức Cẩn thân hoa cái điện đại học sĩ. Cả hai đều là chức Tể tướng cả. Vì cho việc hôn nhân của Thiên tử là quan trọng, cho nên dùng đại thần làm sứ giả.

Hồ truyện bảo rằng: “Dùng chức Đại phu cũng được, cần gì phải dùng chức Tam công.” Nếu như vậy thì Thánh nhân việc gì phải dạy bảo về ý nghĩa quan trọng của lễ đại hôn. Công Dương nói: “Việc đã bàn xong, sứ giả bèn sang Lỗ,” có nghĩa là các nghi lễ đã làm xong rồi mới đi đón dâu, giải thích thế cũng gần đúng. Có lẽ nào sứ giả đến làm mối, rồi nhân tiện đón luôn vương hậu. Tôi xem kỹ Kinh văn thì thấy

« TrướcTiếp tục »