Hình ảnh trang
PDF
ePub

丙戌,衛侯晉卒。

穀梁:再稱日,決日義也。

管見:春秋無生名,生名者,失國之君。晉也得國而生名 之?觀於詩之新臺,蓋有人心者,未有不欲指其名而唾罵之。 晉見於隱四年,沒於桓十二年,十九年諸侯,既已化為殘煙敗 草,而其滅衛之人倫,傷周之風化,惡名無窮。先儒曰:晉之名 惡也,信然。聖經兩書其名,當是有深意在。

按晉於齊祿父,初時整然為兩親翁,繼而為翁婚。于蒲

[merged small][ocr errors]

桃丘期會,將兩婿而為好也。于郎之戰,婿

從翁已伐婿也。是晉於事翁之道,似覺斌媚。晉死後,宣姜 歸于昭伯,與祿父有又整然兩箇親翁。古來彝倫攸,未有

甚於此者。

Bính Tuất, Vệ Hầu Tấn tốt.

Cốc lương: Tái xưng nhật, quyết nhật nghĩa dã.

Quản kiến: Xuân Thu vô sinh danh, sinh danh giả, thất quốc chi quân. Tấn đã đắc quốc nhi sinh danh chi? Quan ư thị chi tân đài, cái hữu nhân tâm giả, vị hữu bất dục chỉ kỳ danh nhi thoá mạ chi. Tấn kiến ư Ẩn tứ niên, một ư Hoàn thập nhị niên, thập cửu niên chư hầu, ký dĩ hoá vi tàn yên bại thảo, nhi kỳ diệt vệ chi nhân luân, Thương Chu chi phong hoá, ác danh vô cùng. Tiên nho viết: Tấn chi danh ác dã, tín nhiên. Thánh Kinh lưỡng thư kỳ danh, đương thị hữu thâm ý tại.

Án Tấn ư Tề Lộc Phủ, sơ thời chỉnh nhiên vi lưỡng thân ông, kế nhi vi ông hôn. Vu Bồ tư mệnh, ông mệnh tế dã. Đào Khâu kỳ hội, tương lưỡng tế nhị vị hảo dã. Vu Lang chi chiến, tế tòng ông dĩ phạt tế dã. Thị Tấn ư sự ông chi đạo, tự giác vũ mỵ. Tấn tử hậu, Tuyên Khương quy vu Thiệu Bá, dĩ

Lộc Phủ hữu hựu chỉnh nhiên lưỡng cả thân ông. Cổ lai di luân du dịch, vị hữu thậm ư thử giả.

[Kinh văn]: Ngày Bính Tuất, quan Vệ Hầu tên là Tấn mất.

Cốc Lương: Ngày Bính Tuất chép hai lần, để làm rõ ý nghĩa của việc chép ngày.

Quản kiến: Kinh Xuân Thu không gọi tên người lúc còn sống, chỉ có vua mất nước mới gọi tên lúc còn sống. Vậy sao Tấn (Vệ Tuyên Công) đã được nước mà lại gọi tên lúc còn sống? Cứ xem thơ Tân Đài" trong Kinh Thi, thì những người có lương tâm ai mà không muốn vạch cái tên của Vệ Tuyên Công ra mà chửi rủa. Tấn xuất hiện năm Lỗ Ẩn Công thứ 4, mất năm Lỗ Hoàn Công thứ 12, mười chín năm làm vua chư hầu, nay đã hoá thành tro tàn củi mục, ấy thế mà tiếng xấu làm hỏng cương thường nước Vệ, làm hại phong hoá nhà Chu vẫn để lại mãi mãi. Tiên nho nói: “Chép là Tấn để tỏ ý ghét vậy,” lời ấy quả là đúng. Kinh văn của Thánh nhân hai lần chép tên tục của Tấn là có ý sâu xa đó.

(2)

Tấn đối với Lộc Phủ nước Tề (Tề Hy Công) lúc đầu là thông gia với nhau, sau lại thành bố vợ chàng rể. Khi họp ở đất Bồ thì là bố vợ hội họp với chàng rể. Khi họp ở Đào Khâu thì lại là hai chàng rể kết tình hoà hiếu với nhau. Trong trận đánh ở đất Lang thì là chàng rể Vệ Tuyên Công, đi theo bố vợ Tề Hy Công đánh chàng rể Lỗ Hoàn Công. Như thế là Tấn đối với đạo thờ bố vợ thật là nhũn nhặn. Sau khi Tấn chết, nàng Tuyên Khương lại về với Thiệu Bá... Tấn và Lộc Phủ lại nghiễm nhiên trở thành thông gia. Từ xưa đến nay luân thường đạo lý chưa bao giờ đồi bại đến mức qua quắt như thế.

CHÚ THÍCH:

1. Thơ Tân Đài, Bội phong, Kinh Thi chê việc Vệ Tuyên Công lấy vợ cho con tên là Cấp, sau thấy nàng dâu đẹp liền cưới luôn làm vợ, đó là nàng Tuyên Khương, khi Vệ Tuyên Công mất lại về với Chiêu Bá, con của Vệ Tuyên Công.

2. Vệ Tuyên Công và Lỗ Hoàn Công đều lấy con gái nước Tề làm vợ.

3. Sau khi Vệ Tuyên Công chết, nàng Tuyến Khương lại lấy con của Vệ Tuyên Công. Cho nên Vệ Tuyên Công đương là con rể của Tề Hy Công, bỗng trở thành ông thông gia của Tề Hy Công.

十有二月,及鄭師伐宋。丁未,戰于宋。

左傳:遂出師而伐宋。戰焉,宋無信也。

公羊:何以不言師敗續?內不言戰,言戰,乃敗也。

穀梁: 不言與鄭戰,恥不和也。

管見:此魯、鄭與宋戰,互有勝負也。其以戰于宋為文惡 魯、鄭之憤兵也。諱不言公,恥之也。其為可恥何?宋人貪賂, 不能以義止之,則亦已矣。宋於魯無仇也,於鄭有德也,為魯 桓者,待宋人加兵於鄭,而鄭來求救,以兵應之,則善矣。不 能自我以好弭仇,而徒助人以怨報德,驅兵臨城,律行攻殺, 不義又不仁焉。

書曰及鄭師,曰戰于宋,歸首於鄭,而後魯之罪彰。薄責 於宋,而後鄭之惡著。公羊曰戰乃敗。穀梁曰恥不和,義皆 未安。下文公即與鄭戰齊、宋,是役安見其敗?魯鄭終合為一 黨,安得謂之不和者乎?

Thập hữu nhị nguyệt, cập Trịnh sư phạt Tống. Đinh Vị, chiến vu Tống.

Tả truyện: Toại xuất sư nhi phạt Tống. Chiến yên, Tống vô tín dã.

Công Dương: Hà dĩ bất ngôn sư bại tục? Nội bất ngôn chiến, ngôn chiến, nãi bại đã.

Cốc Lơng: Bất ngôn dĩ Trịnh chiến, sỉ bất hoà dã.

Quản kiến: Thử Lỗ, Trịnh dĩ Tống chiến, hỗ hữu thắng phụ dã. Kỳ dĩ chiến vu Tống vi văn ác Lỗ, Trịnh chi phẫn binh dã. Huý bất ngôn công, sỉ chi dã. Kỳ vi khả sỉ hà? Tống nhân tham lộ, bất năng dĩ nghĩa chỉ chi, tắc diệc dĩ kỹ. Tống ư Lỗ vô cừu dã, ư Trịnh hữu đức dã, vi Lỗ Hoàn giả, đãi Tống nhân gia binh ư Trịnh, nhi Trịnh lại cầu cứu, dĩ binh ứng chi, tắc

thiện hỹ. bất năng tự ngã dĩ hiếu nhị cừu, nhi đồ trợ nhân dĩ oán báo đức, khu binh lâm thành, luật hành công sát, bất nghĩa hựu bất nhân yên.

Thư viết cập Trịnh sư, viết chiến vu Tống, quy thủ ư Trịnh, nhi hậu Lỗ chi tội chương. Bạc trách ư Tống, nhi hậu Trịnh chi ác trước. Công Dương viết chiến nãi bại. Cốc Lương viết sỉ bất hoà, nghĩa giai vị an. Hạ văn Công tức dĩ Trịnh chiến Tề, Tống, thị dịch an kiến kỳ bại? Lỗ Trịnh chung hợp vi nhất đảng, an đắc vị chi bất hoà giả hồ

[Kinh văn]: Tháng 12, Hoàn Công cùng với quân nước Trịnh đi đánh nước Tống. Ngày Đinh Mùi đánh nhau ở đất Tống.

Tả truyện: Lỗ cùng với Trịnh đem quân đi đánh Tống. Hai bên đánh nhau ở đất Tống, vì Tống không giữ chữ tín.

Công Dương: Sao không chép quân Lỗ bị thua? Vì kiêng không được nói đến chữ “đánh” (chiến), nói đến chữ “đánh” tức là Lỗ thua.

Cốc Lương: Không chép Lỗ và Trịnh đánh Tống, vì cho rằng sự bất hoà đó là đáng xấu hổ.

Quản kiến: Đây là Lỗ, Trịnh đánh nhau với Tống bất phân thắng bại. Kinh văn chép rõ là đánh nhau ở đất Tống để tỏ ý ghét Lỗ, Trịnh đem quân đi đánh chỉ vì tức giận. Kiêng không chép Lỗ Hoàn Công vì cho đó là việc nhục nhã. Vì sao lại coi việc đó là nhục? Vì Tống tham của đút, nếu Lỗ đem lẽ phải mà không ngăn nổi lòng tham ấy thì nên thôi. Bởi vì Tống đối với Lỗ vốn không có thù, đối với Trịnh là người có ơn, vì vậy ở vào địa vị Lỗ Hoàn Công thì nên đợi Tống đem binh đánh Trịnh, và Trịnh đến cầu cứu, rồi sẽ đem binh đến giúp, như vậy thì phải hơn. Thế nhưng Lỗ Hoàn Công không biết đem tình hoà hiếu để dẹp oán thù, chỉ biết giúp người đem oán trả ơn, mang quân đến nước người chém giết khắp nơi, thật là đã bất nghĩa lại bất nhân.

[ocr errors]

Kinh văn chép: “Cùng với quân Trịnh,” chép “Đánh nhau ở đất Tống,” cho rằng Trịnh là đầu sỏ thì cái tội của Lỗ tự lộ ra. Trách nhẹ Tống là làm rõ tội ác của Trịnh. Công Dương nói: Chép chữ “đánh” (chiến) tức là Lỗ bị thua. Cốc Lương nói: Sự bất hoà là đáng xấu hổ. Hai cách giải thích ấy đều không ổn. Xem đoạn văn dưới có chép: “Lỗ cùng Trịnh đánh Tề, Tống” thì trận đánh này Lỗ có thua đâu? Lỗ và Trịnh cuối cùng vẫn là một bè một đảng với nhau, sao lại bảo là bất hoà?

[桓公]十有三年

春,二 月,公會紀侯、鄭伯。己巳,及齊侯、宋

公、衛侯、燕人戰。齊師、宋師、衛師、燕師敗績。

左傳:宋多責賂於鄭,故以紀、魯反齊、宋、衛、燕戰。

不書所戰,後也,鄭人請修好。

公羊:曷為後日?恃外也。得紀侯鄭伯,然後能為日也。 穀梁:其不地於紀也。

管見:宋公怨魯、鄭伐,請於齊師以伐鄭。齊侯方以衛國 圖紀,宋公以燕師從。紀侯求救於魯,公乃會鄭伯赴之。日後 者,七國交戰之日也。是役也,紀為內主,齊為外主。魯、鄭 應紀、宋、衛、燕從齊。紀者魯之與,衛者齊之與,燕者宋之 與,鄭始與魯合,故為紀出力。宋始與齊合,故為齊出力。衛 侯朔者齊侯之外孫,新即位,急於附齊。燕伯方求於宋,以 成於齊,故皆以師從。救紀者二國,敵紀者四國。卒以寡勝 眾何也?師直為壯,曲為老。紀實無罪。近齊其罪,桓二年, 齊謀襲之不克。至是以兵臨之,志在滅國,而取其地。是直 在紀而曲在齊矣。

公急紀之難,以鄭兵來,於是四國氣餒,一戰而敗。此不 在兵之多寡,而在理之曲直。易曰:長子出師,弟子與尸,貞 凶。夫能奉直辭以為長子,弟子雖眾,亦奚以為。故雖齊、紀 為敵,經特序公為首,予其急難之義也。四國稱師,見其以眾 取敗,師克不在眾也。

« TrướcTiếp tục »