Hình ảnh trang
PDF
ePub

không bao giờ đáng tin, mà lại muốn giao thiệp với chúng bằng lễ nghĩa, như thế thật là sai lầm.

Kinh văn chép “Công họp với rợ Nhung” là hạ thấp nước Lỗ, thế là Nhung là kẻ thù chủ yếu của nước Lỗ. Ở đây không chép tước hiệu, là vì rợ Nhung là Di Địch bên ngoài.

夏,五月,莒人入向。

左傳:莒子娶向,向姜不安莒而歸。入向,以姜氏還。

Hạ, ngũ nguyệt, Cử nhân nhập Hướng.

Tả truyện: Cử Tử thú Hướng, Hướng Khương bất an Cử nhi quy.

Nhập Hướng, dĩ Khương Thị hoàn.

[Kinh văn]: Mùa hạ, tháng 5, người nước Cử vào nước Hướng.

Tả truyện: Cử Tử lấy vợ người nước Hướng, nàng Khương Thị nước Hướng không chịu ở lại nước Cử bỏ về. Đến đây người nước Cử đem quân vào nước Hướng đưa nàng Khương Thị về.

無駭帥師入極(

公羊:疾始滅也。

穀梁:極國也,不稱氏,滅同姓貶也。

管見:凡書入惡之也。諸侯受地於王,承國於祖,不犯司馬 之伐,而以小小爭忿,入其國都。為所入者,不保其國,天王 弗能庇焉,病王也。入之者,上無王命,毀人廟社,為己甚矣。

Vô Hãi suý sư nhập Cực.

Công Dương: Tật thuỷ diệt dã.

Cốc Lương: Cực quốc dã, bất xưng thị, diệt đồng tính biếm dã.

Quản kiến: Phàm thư nhập ố chi dã. Chư hầu thụ địa ư Vương, thừa quốc ư tổ, bất phạm Tư mã chi phạt, nhi dĩ tiểu tiểu tranh phẫn, nhập kỳ quốc đô. Vi sở nhập giả, bất bảo kỳ quốc, Thiên vương phất năng

tý yên, bệnh Vương dã. Nhập chi giả, thượng vô Vương mệnh, huỷ nhân miếu xã, vị kỷ thậm kỹ.

[Kinh văn]: Vô Hãi đem quân vào nước Cực.

Công Dương: Ghét việc khởi đầu diệt nước cùng họ, nên chép vào. Cốc Lương: Cực là tên nước, không chép họ, vì diệt nước cùng họ, cho nên chê vậy.

(1)

Quản kiến: Phàm chỗ nào chép là “vào” đều tỏ ý ghét vậy. Chư hầu nhận đất phong của Thiên vương, nối nghiệp nước của tổ tiên, không phạm vào quyền chinh phạt của quan Tư mã, mà chỉ vì sự giận dữ nhỏ mọn, mà đem quân vào Kinh đô nước ấy. Nước bị xâm lấn, không giữ được nước của mình, mà Thiên vương cũng không che chở nổi, thì đáng chê Thiên vương vậy. Đem quân vào nước người, không có mệnh lệnh của

Thiên vương, phá hủy tôn miếu xã tắc nước người, thì quá lắm.

CHÚ THÍCH:

quân sự.

1. Tư mã: Tên một trong sáu chức khanh thời Chu, nắm quyền chỉ huy

秋,八月更辰,公及戎盟于唐。

左傳:戎請盟,復修戎好也。

管見:蓋會潛之戒也。春與之會,秋與之盟,一歲而再見焉,

隱公之不振於戎也,亦甚矣。書以恥之。

Thu, bát nguyệt Canh Thìn, Công cập Nhung minh vu Đường.

Tả truyện: Nhung thỉnh minh, phục tu nhung hảo đã.

Quản kiến: Cái hội tiềm chi nhung dã. Xuân dữ chi hội, thu dữ chi minh, nhất tuế nhi tái kiến yên, Ẩn Công chi bất chấn nhung dã, diệc thậm hỹ. Thư dĩ sỉ chị.

[Kinh văn]: Mùa thu, tháng 8 ngày Canh Thìn, vua An Công ăn thề với rợ Nhung ở đất Đường nước Lỗ.

Tả truyện: Rợ Nhung xin làm lễ ăn thề, nên Ẩn Công nối lại hòa hiếu với rợ Nhung vậy.

Quản kiến: Có lẽ nói về cuộc hội thề với rợ Nhung ở đất Tiềm.

Như vậy thì, mùa xuân cùng họp mặt, mùa thu cùng ăn thề, một năm

có đến hai lần gặp nhau, Ẩn Công không chủ động được với rợ Nhung thì thật quá lắm.

CHÚ THÍCH:

1. Đất Đường: Nay thuộc huyện Phương Dư, đất Cao Bình.

九月,紀 履綸來逆女。冬,十月,伯姬歸于

紀。

左傳:卿為君逆也。

公羊:女在其國,稱女,在途稱歸,入國稱夫人。伯姬者何?

內女也。

穀梁:逆女親者也,使大夫非正也。

管見:禮親逆,厚别也。夫婦人倫之始,風化之基,謹於 始,乃可成於終,立其基,方能固其本。婦從夫者也,歸而從 人可乎?伯姬之葬于齊有以也。內女嫁不書,此具書,志變禮 也。程子曰:迎於其所館以親迎于証之,似於卿逆不妨。

淺意,古者,年十五而生子,蓋以宗廟繼體為重,則蚤娶 禮也。文王為世子,故得親逆至于渭而為河橋也,非俟歸于渭 也。自其為世子時,已有內主,及繼國,則內主為夫人無再娶 之禮也。國君而娶夫人,必有委裘負之變,不得行親御,授 綏之逆,則從權而使同姓之大夫。若無故而緩娶,與再娶而使 卿逆,是失禮之中,又失禮焉。恐不得以越國親逆為解也。

Cửu nguyệt, Kỷ Lý Tu lai nghịch nữ. Đông, thập nguyệt, Bá

Cơ quy vu Kỷ.

Tả truyện: Khanh vi quân nghịch dã.

Công Dương: Nữ tại kỳ quốc, xứng nữ, tại đồ xứng quy, nhập quốc xứng phunhân. Bả cơ giả hà? Nội nữ dã.

Cốc Lương: Nghịch nữ thân giả dã, sử Đại phu phi chính đã.

Quản kiến: Lễ thân nghịch, hậu biệt dã. phu phụ nhân luân chi thuỷ, phong hoá chi cơ, cẩn ư thuỷ, nãi khả thành ư chung, lập kỳ cơ, phương năng cố kỳ bản. Phụ tòng phụ giả dã, quy nhi tòng nhân khả hồ? Bá Cơ chi táng vu Tề hữu dĩ dã. Nội nữ giá bất thư, thử cụ thư, chí biến lễ dã. Trình Tử viết: Nghênh ư kỳ sở quán dĩ thân nghênh vu vị chứng chi, tự ư khanh nghịch bất phương.

Thiển ý, cổ giả, niên thập ngũ nhi sinh tử, cái dĩ tông miếu kế thể vi trọng, tắc tảo thú lễ dã. Văn Vương vi Thế tử, cổ đắc thân nghịch chí vu vị nhi vi hà kiều dã, phi sĩ quy vu vị dã. Tự kỳ vi Thế tử thời, dĩ hữu nội chủ, cập kế quốc, tắc nội chủ vị phu nhân vô tái thú chi lễ dã. Quốc quân nhi thú Phu nhân, tất hữu uỷ cầu phụ thái chi biến, bất đắc hành thân ngự, thụ tuy chi nghịch, tắc tòng quyền nhi sử đồng tính chi Đại phu. Nhược vô cố nhi hoãn thú, dữ tái thú nhi sử khanh nghịch, thị thất lễ chi trung, hựu thất lễ yên. Khủng bất đắc dĩ việt quốc thân nghịch vi giải đã.

[Kinh văn]: Tháng 9, Lý Tu nước Kỷ đến nước Lỗ đón dâu. Mùa đông, tháng 10, nàng Bá Cơ về làm dâu nước Kỷ.

Tả truyện: Quan khanh đi đón dâu thay vua.

Công Dương: Con gái khi còn ở nước mình gọi là “nữ,” trên dọc đường về nhà chồng gọi là “phụ” vào đến nước của chồng gọi là “Phu nhân.” Bá Cơ là ai? Là con gái nước Lỗ vậy.

Cốc Lương: Vua nước Kỷ phải thân đi đón vợ, sai quan Đại phu đi đón thay là không đúng lễ.

Quản kiến: Theo lễ, chồng phải đi đón vợ, đó là thể hiện sự coi trọng đạo vợ chồng. Vợ chồng là đầu mối của nhân luân, là nền móng của phong hóa, khởi đầu thận trọng, kết cục sẽ tốt lành, dựng được nền móng thì gốc rễ mới bền chặt. Vợ phải theo chồng, khi về nhà chồng lại đi với người khác, Trình Tử nói: “Đón vợ ở công quán của mình” và lấy việc vua Văn Vương thân đi đón vợ ở sông Vị làm bằng chứng, như vậy thì dường như quan khanh thay mặt đi đón cũng chẳng hại gì.

Trộm nghĩ đời xưa, mười lăm tuổi sinh con, là coi việc nối dõi tông miếu làm trọng, vậy thì lấy vợ sớm là hợp lễ. Khi Văn Vương làm Thế tử, làm cầu qua sông Vị để đón vợ, chứ không phải đợi đón ở sông Vị. Từ khi Văn Vương còn làm Thế tử, đã có “Nội chủ,” đến khi làm vua, thì bà Nội chủ ấy làm Phu nhân, không phải làm lễ cưới lần nữa. Một khi Quốc quân mà lấy Phu nhân, nếu có tang vua cha, vua con còn bé, chưa có thể thân đi đón vợ, thì phải tòng quyền mà sai quan Đại phu cùng họ đi đón thay. Còn không có duyên cớ gì mà hoãn lấy vợ, hoặc là lấy vợ lần nữa mà sai quan khanh đi đón, thì đã thất lễ, lại càng thất. E rằng, không thể lấy cớ không được vượt ra khỏi nước mình đi đón vợ mà giải thích. CHÚ THÍCH:

1. Trình Tử: Tức Trình Di, em Trình Hiệu, người Lạc Dương, người thời Bắc Tống. Ông là một trong những nhà triết học có tiếng đời Tống, mở ra cái học

chính tâm, thành ý, cách vật cùng lý đời Tống. Về già, ông có chú giải Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.

紀子伯、莒子盟于密。

管見:胡傳“杞子伯”闕疑,是。

Kỷ Tử Bá, Cử Tử minh vu Mật.

Quản kiến: Hồ truyện “Kỷ Tử Bá” khuyết nghi, thị.

[Kinh văn]: Quan Tử Bá nước Kỷ, quan Cử Tử nước Cử cùng

ăn thề ở đất Mật nước Cử."

(2)

Quản kiến: Theo Hồ truyện, ba chữ “Kỷ Tử Bá” ngờ là để khuyết,

là đúng.

CHÚ THÍCH:

1. Mật: Là đất của nước Cử, ở Thành Dương, phía đông bắc huyện Thuần Vu, có làng Mật.

2. Hồ truyện: Truyện Xuân Thu của Hồ An Quốc. Hồ An Quốc người Sùng An đời Tống, làm ra hai bộ sách là Xuân Thu truyện và Thông giám cử yếu bổ di.

« TrướcTiếp tục »