Hình ảnh trang
PDF
ePub

[莊公]八年

春,王正月,師次于郎,以俟陳人蔡人。

公羊:此其言何?託不得也。

管見: 次而書俟,見其次之久,而師之憊也。師不以次 為譏,詳其所次之由,而善惡可見。此次而矣。囊橐啟 行,公劉所以為仁,尸饔轉恤,祈父所以為暴。久頓師徒, 嬴糧以待,室家有轉輸之苦,原野有暴露之艱,斯師也,其謂 之何師乎?果有所邀其侵軼我乎?則敵至而戰,而何必俟老 師,果有所期以功伐人乎,則謀定而行,而何必俟以養敵。 其究次而也,非徒無功,適以暴眾。春秋舉其甚者,為斷 案。如以成宋亂,以俟陳蔡之類,甚疾之辭也。故疾暴莫嚴 乎春秋。

[TRANG CÔNG] BÁT NIÊN

Xuân, Vương chính nguyệt, sư thứ vu Lang, dĩ sĩ Trần nhân

Sái nhân.

Công Dương: Thử kỳ ngôn sỹ hà? Thác bất đắc dã.

Quản kiến: Thứ nhi thư sĩ, kiến kỳ thứ chi cửu, nhi sư chi bị dã. Sư bất dĩ thứ vi kỵ, tường kỳ sở thứ chi do, nhi thiện ác khả kiến. Thử tắc thứ nhi sĩ hỹ. Nang thác khải hành, Công Lưu sử dĩ vi nhân, thi ung chuyển tuất, kỳ phụ sở dĩ vi bộc. Cửu đến sư đồ, doanh lương dĩ đãi, thất gia hữu chuyển thâu chi khổ, nguyên đã hựu bộc lộ chi gian, tư sư dã, kỳ vị chi hà sư hồi Quả hữu sử yêu kỳ xâm dật ngã hồ! Tắc địch chỉ nhi chiến, nhi hà tất sĩ lão sư, quả hữu sử kỳ dĩ công phạt nhân hồ, tắc mưu định nhi hành, nhi hà tất sĩ dĩ dưỡng địch. Kỳ cứu thứ nhi sĩ dã, phi đồ vô công, thích dĩ bộc chủng. Xuân Thu cử kỳ thậm giả, vi đoán án. Như dĩ

thành Tống loạn, dĩ sĩ Trần Sái chi loại, thậm tật chi từ dã. Cố tật bộc mạc nghiêm hồ Xuân Thu.

[TRANG CÔNG] NĂM THỨ TÁM

[Kinh văn]: Mùa xuân, tháng Giêng của vua nhà Chu, quân nước Lỗ ra đóng ở đất Lang để đợi người nước Trần, người nước Sái.

Công Dương: Tại sao chép là “đợi”? Là có ý bất đắc dĩ vậy.

Quản kiến: Đóng quân mà chép là “đợi,” thấy rõ quân đóng đã lâu ngày, và binh lính đã mệt mỏi. Trong việc binh không chê trách việc đóng quân lại, nhưng phải biết rõ nguyên do, thì mới biết việc đóng quân lại là đúng hay sai. Đây là đóng quân lại để đợi vậy. Kìa xem việc bỏ lương khô vào đầy túi để rồi đi nơi khác, đó là đức nhân của Công Lưu; đem binh mã vào nơi khổ ải, đó là điều bạo ngược của Kỳ phủ.” Nay Trang Công đóng quân một chỗ, tích trữ lương thực để chờ, làm cho vợ con họ phải vất vả, lo lắng thấp thỏm, binh sĩ phải khốn khổ nơi chiến trường sương gió, đạo quân này đáng gọi là đạo quân gì? Nếu có nước khác định đến xâm lấn ư? Thì giặc đến là đánh, việc gì phải chờ đợi, làm cho binh sĩ mệt mỏi. Nếu có dự định đi đánh nước người ư? Thì mưu kế đã định là thi hành, việc gì phải chờ đợi để kẻ địch kịp phòng bị. Trang Công cuối cùng cứ đóng quân để chờ, chẳng những toi công mà còn làm binh sĩ vất vả. Kinh Xuân Thu nêu lỗi lầm như thế để mà xét tội. Như việc Hoàn Công đóng quân đợi người Trần, người Sái, Kinh văn đều dùng từ tỏ ý rất ghét vậy. Cho nên có thể nói, ghét kẻ bạo ngược không gì nghiêm khắc bằng Kinh Xuân Thu.

CHÚ THÍCH:

(83)

1. Thơ Công Lưu, trong Đại nhã, Kinh Thi nói về Công Lưu (tức Thái Vương, ông tổ nhà Chu), đóng đô ở đất Mân, thường bị rợ Địch vào xâm lấn. Thái Vương nói: “Rợ Địch chỉ muốn lấy đất nước của ta. Người quân tử không vì cái để nuôi người mà làm hại người.” Thế rồi liền bỏ sang đất Kỳ.

2. Bài thơ Kỳ phủ trong Tiểu nhã, Kinh Thi có câu: “Đem ta vào nơi vất vả, khiến mẹ ta phải vất vả việc bếp nước.” Ý nói, việc binh sĩ oán Kỳ phủ (quan Tư mã đời Chu Tuyên Vương) bắt họ phải đi lính lâu ngày không có ai ở nhà nuôi mẹ.

3.Lỗ Hoàn Công năm thứ 2, Hoa Đốc giết vua của mình là Dữ Di, Hoàn Công hội với Tề Hầu, Trần Hầu, Trịnh Bá ở đất Tắc để giúp kẻ làm loạn của nước Tống.

甲午,治兵。

左傳:治兵于廟,禮也。

公羊:何言乎[祠]兵?為九也。

穀梁:出曰治兵,習戰也。

,

管見:治兵者,治車從,肅軍位,申紀律,習戰陣。蓋由 出次于郎,因而整軍經武者也。伯禽征淮夷,誓眾於費曰, [厚]乃甲胄,[盾]乃干,無敢不弔;備乃弓矢,鍛乃矛 無敢 不善。然則次郎治兵何譏乎。白淮徐並興,東郊不開,則師 出有名矣。伯禽為方伯帥諸侯之師,以伐之而治兵於費,則 師出以律矣。莊公意在爭郕,約陳蔡以出師,二國畏齊而不敢 至。興無名之師,謀同姓之國。其事比伯禽大異。及師次既 久,乃始訓飭而整齊之,可謂之有律乎?謹而日之,其為久 役玩武之罪自見,左氏治兵于廟非矣。

Giáp Ngọ, trị binh.

Tả truyện: Trị binh vu miếu, lễ dã.

Công Dương: Hà ngôn hồ [từ binh? Vi cửu dã.

Cốc Lương: Xuất viết trị binh, tập chiến dã.

Quản kiến: Trị binh giả, trị xa tòng, túc quân vị, thân kỷ luật,

tập chiến trận. Cái do xuất thứ vu Lang, nhân nhi chỉnh quân kinh vũ giả dã. Bá Cầm chinh Hoài Di, thệ chúng ư Phi viết, hậu] nãi giúp trụ, [thuẫn] nãi can, vô cảm bất điếu; bị nãi cung thỉ, đoán nãi mâu, vô cảm bất thiện. Nhiên tắc thứ lang trị binh hà ky hồ. Viết hoài từ tịnh hưng,

đông giao bất khai, tắc sư xuất hữu danh hỹ. Bá Cầm vi phương bá suý chư hầu chi sư, dĩ phạt chi nhi trị binh ư Phí, tắc sư xuất dĩ luật kỹ. Trang Công ý tại tranh Thành, ước Trần Sái dĩ xuất sư, nhị quốc uý Tề nhi bất cảm chí, hưng vô danh chi sư, mưu đồng tính chi quốc. Kỳ sự tỷ Bá Cầm đại dị. Cập sư thứ ký cửu, nãi thuỷ huấn sức nhi chính Tề chi, khả vị chi hữu luật hồ? Cẩn nhi nhật chi, kỳ vi cửu dịch ngoạn vũ chi tội tự kiến, Tả Thị trị binh vu Miếu phi hỹ.

[Kinh văn]: Ngày Giáp Ngọ, chỉnh đốn quân đội.

Tả truyện: Chỉnh quân mà cáo với nhà Thái miếu là đúng lễ vậy. Công Dương: Tại sao nói phải chỉnh đốn quân đội? Vì đóng quân đã lâu ngày.

Cốc Lương: Xuất quân thì gọi là chỉnh đốn quân đội, tức là tập trận vậy.

Quản kiến: Chỉnh đốn quân đội nghĩa là chuẩn bị xe ngựa, tề chỉnh đội ngũ, tuyên bố quân pháp, diễn tập chiến trận. Có lẽ do việc đem quân đóng ở đất Lang, nên nhân đó chỉnh quân, luyện tập võ bị. Xưa kia Bá Cầm" đánh vợ Hoài Di thề trước quân sĩ ở đất Phí rằng: Áo giáp mũ chiến cho đầy đủ, lá chắn cho vững chắc, không dám không tính đến; cung nỏ bao tên cho đầy, dáo gươm cho sắc, không dám không hoàn thiện. Vậy thì Trang Công đóng quân ở đất Lang, chỉnh đốn binh mã, sao lại chế trách? Trả lời rằng: Về đời Bá Cầm nước Hoài, nước Từ để nổi loạn, bên đông không đi lại được, nên đem quân đi đánh là có danh nghĩa. Bá Cầm làm bá chủ một phương, thống lĩnh quân chư hầu đi đánh vợ Hoài Di, mà chỉnh đốn quân đội ở đất Phí, như thế là ra quân có kỷ luật. Chủ ý của Trang Công là tranh đất của nước Thành, hẹn với nước Trần, nước Sái cùng ra quân, nhưng nước Trần, nước Sái sợ quân Tề không dám đến. Trang Công xuất quân không có danh nghĩa, lại mưu chiếm nước cùng họ, việc này thật khác hẳn với việc của Bá Cầm. Đến khi đóng quân đã lâu, rồi mới đem ra huấn luyện chỉnh đốn lại quân đội, như thế có thể coi là ra quân có kỷ luật được chăng? Kinh văn cẩn thận ghi ngày (Giáp Ngọ), đủ thấy cái tội hành quân dài ngày, dùng binh bừa bãi của Trang Công. Tả truyện nói: “Chỉnh đốn quân ở nhà Thái miếu,” là sai rồi.

CHÚ THÍCH:

1. Bá Cầm là con Chu Công được phong ở đất Lỗ. Kinh Thư (thiên Phí thệ) có chép việc Bá Cầm mang quân đi đánh Hoài Di và Từ Nhung.

夏,師及齊師圍郕,郕降于齊師。

左傳:仲慶父欲伐齊師。公曰不可,我不德,齊師何罪? 管見:隱十年,齊以入郕,則取郕者齊之志也。何以書師 及,若魯為志者?曰魯於親也,齊欲取之,魯當救之,乃乘 齊之釁,欲爭其利。次郎之師,動於利者也。陳蔡不至,乃陽 與齊合,將因齊之力,而分其地。郕降于齊師,力不及也。其 曰我实不德,齊師何罪,寔有悔於德力皆無,何以服人。故 郕降于齊,而以魯及之,誅心之法也。

Hạ, sư cập Tề sư vi Thành, Thành hàng vu Tề sư.

Tả truyện: Trọng Khánh Phủ dục phạt Tề sư. Công viết: Bất khả,

ngã thực bất đức, Tề sư hà tội?

Quản kiến: Ẩn thập niên, Tề dĩ nhập Thành, tắc thủ Thành giả Tề chi chí dã. Hà dĩ thư sư cập, nhược Lỗ vị chí giả? Viết Lỗ ư Tạo thân dã, Tề dục thủ chi, Lỗ đương cứu chi, nãi thừa Tề chi hấn, dục tranh kỳ lợi. Thứ Lang chi sư, động ư lợi giả dã. Trần Sái bất chí, nãi dương dữ Tề hợp, tương nhân Tề chi lực, nhi phân kỳ địa. Thành tốt hàng vu Tề sư, lực bất cập dã. Kỳ viết ngã thực bất đức, Tề sư hà tội, thực hữu hối ư đức lực giai vô, hà dĩ phục nhân. Cổ Thành hàng vu Tề, nhi dĩ Lỗ cập chi, trụ tâm chi pháp dã.

[Kinh văn]: Mùa hạ, quân nước Lỗ cùng với quân nước Tề vây đánh nước Thành, nước Thành hàng quân nước Tề.

Tả truyện: Trọng Khánh Phủ muốn đánh quân Tề. Trang Công đáp: “Không nên, chính vì ta không có đức chứ quân Tề có tội gì.”

« TrướcTiếp tục »