Hình ảnh trang
PDF
ePub

十有二月乙卯,夫人子氏薨。

公羊:隱公之母也,不書葬,成公意也。

穀梁:隱之妻也,不書葬,夫人之義從君者也。

管見:此子氏者也,公羊以為隱母,穀梁以為隱妻,左氏以 尹氏為君氏,故無傳。前記惠公繼室以聲子生隱公。竊意子氏當 為聲子之子,其以夫人卒,何也?隱既受國,則君母也,故以 夫人卒之。不葬者,非嫡也,不得祔葬於惠公,特沒之。

夫!以夫人終君母,而君臣之義重。以不葬嫡别庶,而夫婦 之倫明。胡氏曰邦君之妻,先卒不書葬以明倫也。然考朱子綱 目,於長孫皇后,書葬昭陵。古者,邦君即位之一年,即治山 陵。君后先卒,而葬於陵,乃君之陵也,苟書之亦未為不順。 此說恐未可為隱妻之斷,學者詳之。

Thập hữu nhị nguyệt Ất Mão, Phu nhân Tử Thị hoảng. Công Dương: Ẩn Công chi mẫu dã, bất thư táng, thành công ý dã. Cốc Lương: Ân chi thê dã, bất thư táng, phu nhân chi nghĩa tòng quân giả dã.

Quản kiến: Thử Tử Thị giả dã, Công Dương dĩ vi ẩn mẫu, Cốc Lương dĩ vi ẩn thê, Tả Thị dĩ Doãn Thị vi Quân Thị, cố vô truyền. Tiền ký Huệ Công kế thất dĩ thanh tử sinh Ẩn Công. Thiết ý Tử Thị đương vi thanh tử chi tử, kỳ dĩ phu nhân tốt, hà dã? Ẩn ký thụ quốc, tắc quân mẫu dã, cố dĩ phu nhân tốt chi. Bất táng giả, phi đích dã, bất đắc phụ táng ư Huệ Công, đặc một chi

Phù! Dĩ Phu nhân chung quân mẫu, nhi quân thần chi nghĩa trọng. Dĩ bất táng đích biệt thứ, nhi phu phụ chi luân minh. Hồ Thị viết: Bang quân chi thê, tiên tốt bất thư táng dĩ minh luân đã. Nhiên khảo Chu Tử Cương mục, ư trưởng tôn hoàng hậu, thư táng chiêu lăng. Cổ giả, bang

quân tức vị chi nhất niên, tức trị sơn lăng. Quân hậu tiên tốt, nhi táng ư lăng, nãi quân chi lăng dã, cẩu thư chi diệc vị vi bất thuận. Thử thuyết khủng vị khả vị ẩn thê chi đoán, học giả tường chi.

[Kinh văn]: Tháng 12 ngày Ất Mão, bà Phu nhân họ Tử mất.

Công Dương: Bà họ Tử là mẹ Ẩn Công, không chép lễ táng, là theo ý của Thành Công.

Cốc Lương: Bà họ Tử là vợ Ẩn Công, không chép lễ táng, vì nghĩa vụ của Phu nhân là phải theo vua.

(1)

Quản kiến: Chỉ có một bà họ Tử, mà Công Dương thì nói là mẹ Ẩn Công, Cốc Lương thì nói là vợ Ẩn Công, Tả truyện thì nói là “bà họ Doãn,” là “bà họ Quân,” cho nên không chép truyện. Ở trên đã chép vợ kế của Huệ Công là nàng Thanh Tử sinh ra Ân Công. Trộm theo ý tôi, bà họ Tử có lẽ là con của Thanh Tử. Tại sao lại chép là Phu nhân mất? Là vì Ẩn Công đã làm vua, thì Thanh Tử là mẹ vua rồi, cho nên chép là Phu nhân mất. Còn không chép lễ táng, là vì Thanh Tử không phải là đích mẫu, nên không được táng theo vào lăng Huệ Công, cho nên không chép.

Này xem, chép là “Phu nhân” để rõ là mẹ vua, do đó nghĩa vua tôi được coi trọng. Không chép lễ táng, để phân biệt đích mẫu và thứ mẫu, do đó đạo vợ chồng được rõ ràng. Họ Hồ nói: “Vợ bang quân mà mất trước thì không chép lễ táng, để đạo vợ chồng được rõ ràng vậy.” Nhưng xét theo sách Cương mục của Chu Tử: “Trưởng tôn Hoàng hậu chép táng ở Chiêu Lăng” Theo lệ đời xưa, năm thứ nhất bang quân lên ngôi, bèn sửa sang lăng miếu. Hoàng hậu của vua mất trước, mà đem táng vào lăng, thì lăng ấy là lăng của vua vậy, nếu có chép lễ táng cũng không chắc phải là trái lễ. Thuyết này e rằng không phải là vợ Ẩn Công, học giả nên xét kỹ lại.

(4)

CHÚ THÍCH:

1. Trình Tử cũng theo thuyết của Cốc Lương và giải thích rằng, đó là Phu nhân, vợ Ẩn Công. Phu nhân là tiếng thường dùng để chỉ sự tôn quý. Vợ phải theo chồng, chồng còn sống thì không chép lễ táng, thế là rõ nghĩa vợ chồng.

2. Bang quân: Là vua chư hầu.

3. Chu Tử: Tức chu Hy, người Vụ Nguyên, tỉnh Giang Tây, là một trong những nhà lý học nổi tiếng nhất đời Tống. Sách vở của ông đều trở thành những

kiến thức chính thống trong trường học và khoa cử của chế độ phong kiến ở

Trung Quốc và Việt Nam.

4. Trưởng tôn Hoàng hậu: Là Hoàng hậu của Đường Thái Tông.

鄭人伐衛。

左傳:討公孫滑之亂也。

管見:入春秋之始,未有書伐,此其書,首罪鄭伯也。司馬 法,賊賢害民則伐之。衛非有得罪於王,鄭伯亦非奉王命専征伐 為侯伯,乃為滑之故,聲衛罪而代之。誠恐滑之去衛,又見容於 他國也。昔也,段惡之不稔,故以京城為下毒,速之于辜。及段 死而滑奔衛,人為之取廩延,又慮滑怨之既深,而諸侯之或不 已與。於是聲罪衛侯,驅兵伐國,以為必如是而後自己殺弟之 過掩,共叔叛兄之惡彰,衛人納叛之罪著。滑亦無所容以為糊口, 之地。所謂剪草除根,設心之最狠者也。

聖經立義,必詳上下文,衛以滑伐鄭,削而不書,獨書鄭 人伐衛,以見鄭莊之無所忌憚,而薄責於衛,減罪於滑。聖人憫

世之心可見。

Trịnh nhân phạt Vệ.

Tả truyện: Thảo Công tôn Hoạt chi loạn đã.

Quản kiến: Nhập xuân thu chi thuỷ, vị hữu thư phạt, thử kỳ thư, thủ tội Trịnh Bá đã. Ty mã pháp, tặc hiền hại dân tắc phạt chi. Vệ phi hữu đắc tội ư Vương, Trịnh Bá diệc phi phụng vương mệnh chuyên chinh phạt vi hầu bá, nãi vi Hoạt chi cố, thanh Vệ tội nhi phạt chi. Thành khủng Hoạt chi khứ Vệ, hựu kiến dung ư tha quốc dã. Tích dã, đoạn ác chi bất nhẫm, cố dĩ kinh thành vi hạ độc, tốc chi vu cô. Cập Đoạn tử nhi bôn Vệ, nhân vi chi thủ lẫm diên, hựu lự Hoạt oán chi ký thâm, nhi chư hầu chi hoặc bất dĩ dữ. Ư thị thanh tội Vệ Hầu, khu binh phạt quốc, dĩ vi

[ocr errors]

tất như thị nhi hậu tự kỷ sát đệ chi quá yểm, cộng Thúc bạn huynh chi ác chương, Vệ nhân nạp bạn chi tội trứ. Hoạt diệc vô sử dung dĩ vi hồ khẩu chi địa. Sở vị tiễn thảo trừ căn, thiết tâm chi tối ngận giả dã.

Thánh kinh lập nghĩa, tất tường thượng hạ văn, Vệ dĩ Hoạt phạt Trịnh, tước nhi bất thư, độc thư Trịnh nhân phạt Vệ, dĩ kiến Trịnh

Trang chi vô sở kỵ đạn, nhi bạc trách ư Vệ, giảm tội ư Hoạt. Thánh nhân mẫn thế chi tâm khả kiến.

[Kinh văn]: Người nước Trịnh đánh nước Vệ.

Tả truyện: Đánh là để dẹp cái loạn Công Tôn Hoạt vậy.

Quản kiến: Đầu đời Xuân Thu, chưa chép chữ “đánh” (phạt), ở đây chép chữ “đánh” (phạt), là để nêu tội Trịnh Bá đầu têu vậy. Theo phép quan Tư mã (Chu lễ): Nước nào hãm hại người hiền, giết hại nhân dân thì đem quân đến đánh. Nước Vệ không mắc tội với Thiên vương, Trịnh Bá cũng không phụng mệnh Thiên vương làm hầu bá chuyên việc chinh phạt, chỉ vì cái cớ Công Tôn Hoạt mà kể tội nước Vệ rồi đem quân đến đánh. Quả thật sợ Hoạt bỏ nước Vệ mà đi, thì sẽ có nước khác bao dung cho Hoạt. Trước kia, tội ác của Đoạn chưa chất chồng, nên Trịnh Bá phong cho đất Kinh Thành nhằm làm hại Đoạn, để cho Đoạn chóng tự chuốc lấy tội. Đến khi Đoạn chết, thì Hoạt chạy sang nước Vệ, người nước Vệ lấy đất Lẫm Diên cho Hoạt, nên Trịnh Bá oán Hoạt càng sâu, e rằng các nước chư hầu không giúp mình. Thế là Trịnh Bá kể tội Vệ Hầu, đem quân đánh Vệ, cho rằng phải làm như vậy thì che đậy được cái tội dụng tâm giết em, nêu rõ được cái ác Cung Thúc Đoạn phản anh, và tội nước Vệ chứa chấp kẻ phản nghịch. Như vậy, Hoạt sẽ không còn nơi nào bao dung để kiếm sống nữa. Thật đúng như câu phương ngôn nói “nhổ cỏ phải nhổ cả rễ,” dụng tâm thật là thâm độc.

Thánh kinh lập nghĩa sâu xa, tất phải xem kỹ thượng hạ văn. Về việc Vệ mượn cớ Hoạt đánh Trịnh, bỏ đi không chép, chỉ chép “người Trịnh đánh Vệ,” để thấy Trịnh Trang (Trịnh Bá) không từ một tội ác nào là không làm, đối với nước Vệ chỉ trách móc qua loa, và giảm tội cho tên Hoạt. Đủ thấy rõ tấm lòng thương đời của Thánh nhân.

春,王二月。

[隱公]三年

程子曰:月,王月也。無事則書時。

管見:周正建子,改月不改時,朱子論之詳矣。夫!冬不可 以為春。聖人先天,而天不違,後天而奉天時,豈其於四時之 序顧樂為是牽合,而錯行之哉!然時王之制作,不可改也。夫子 有德無位,雖欲行夏之時,而不可得,月既改矣。正月為屬民 讀法之時,在君為體元居正,在天為發生萬物。時令正,然後 歲功成,而品物各得其所,聖人於此,蓋有所權量焉。

周之春三月,蓋夏之春正月。周之正月二月,乃夏之仲冬 季冬。以冬冠正,則於理為悖。每年截子丑月事移前一年,移 事從月,則於義為舛。經書春王正月,春王二月,進二春於二。 冬,仍周月而行夏時,假天時而立王正,休乾元之德,為萬世 之準,故曰春秋天子事也。

聖人雖無天子之位,托之於經,以操天子之權。於是天時

正,人道立,而財成輔相之責盡矣。

LẨN CÔNG] TAM NIÊN

Xuân, Vương nhị nguyệt.

Trình Tử viết: Nguyệt, Vương nguyệt dã. Vô sự tắc thư thời.

Quản kiến: Chu chính kiến Tý, cải nguyệt bất cải thời, Chu Tử luận chi tường kỹ. Phù! Đông bất khả dĩ vi xuân. Thánh nhân tiên thiên, nhi thiên bất vi, hậu thiên nhi phụng thiên thời, khởi kỳ ư tứ thời chi tự cố lạc vi thị khiên hợp, nhi thác hành chi tai! Nhiên thời Vương chi chế tác, bất khả củi dã. Phu tử hữu đức vô vị, tuy dục hành hạ chi thời, nhi bất

« TrướcTiếp tục »