Hình ảnh trang
PDF
ePub

穀梁:同尊周也。

管見:同人曰君子為能通天下之志。然則同盟于幽,天 下之志通乎。曰鄭卒不朝,魯猶叛盟,烏在其能通也?同盟也 者,使若一德已尊于天子,不與齊之自為尊也。周德雖衰, 天命未改,一草一木,周之封域也,一民一物,周之臣妾也。 齊特挾天子以令諸侯爾。一旦裒然執牛耳,為天下之宗盟 先王封建之諸侯,聽命於一國,臣為君綱,世道之大變也。庭 寔旅百,自是盟始,雖一匡之功不可少 雖一匡之功不可少,而五伯之罪寔作俑 焉。故于幽以前,未發同之義,則盟自相盟,於天下之故無 與也。于幽同,而天下自此多故矣。

乾九五曰: 龍飛在天。九四曰:或躍在淵,飛之下有躍, 王之下有伯之象也。飛君象躍臣象,君德尊臣德卑。春秋之 志,聖人如見天子在上,諸侯同為此盟,非齊侯之所得専, 而乾綱猶未常墜也。聖人為尊周而作,特書之曰同盟,乃扶 王抑伯之旨。註謂:同盟同尊周同外楚,一字立許多義。夫! 春秋書事,因魯史舊文,問有特發一二義,乃聖人親筆,同 盟自有伯始,可見文理密察,當墨會之可也。若曰彼事為彼 義,此事為此義,恐鑿。會字上公,作公會,然是後多沒公 之文,蓋有深意,當從左。

Đông, thập hữu nhị nguyệt, hội Tề Hầu, Tống Công, Trần Hầu, Vệ Hầu, Trịnh Bả, Hứa Nam, Hoạt Bá, Đằng Tử đồng minh vu U.

Tả truyện: Trịnh thành đã.

Công dương: Đồng minh giả hà? Đồng dục dã.

Cốc Lương: Đồng tên Chu dã.

Quản kiến: Đồng nhân viết quân tử vi năng thông thiên hạ chi chí. Nhiên tắc đồng minh vu U, thiên hạ chi chí thông hồ. Viết Trịnh tốt bất triều, Lỗ do bạn minh, ô tại kỳ năng thông dã? Đồng minh dã giả, sử nhược nhất đức dĩ tôn vụ Thiên tử, bất dữ Tề chi tự vi tôn dã. Chu đức tuy suy, thiên mệnh vị cải, nhất thảo nhất mộc, Chu chi phong vực dã, nhất dân nhất vật, Chu chi thần thiếp dã. Tề đặc hiệp Thiên tử dĩ lệnh chư hầu nhĩ. Nhất đán biều nhiên chấp ngưu nhĩ, vi thiên hạ chi tôn minh, tận Tiên vương phong kiến chi chư hầu, thính mệnh ư nhất quốc, thần vị quân cương, thế đạo chi đại biến dã. Đình thực lữ bá, tự thị minh thuỷ, tuy nhất khuông chi công bất khả thiểu, nhi ngũ bá chi tội thực tác dũng yên. Cố vu u dĩ tiền, vị phát đồng chi nghĩa, tắc minh tự tương minh, ư thiên hạ chi cố vô dữ dã. Vụ U đồng, nhi thiên hạ tự thử đa cố hỹ.

Kiền Cửu ngũ viết: Long phi tại thiên. Cửu tử viết: Hoặc được tại uyên, phi chi hạ hữu dược, vương chi hạ hữu bá chi tượng dã. Phi quân tượng dược thần tượng, quân đức tôn thần đức ty. Xuân Thu chi chí, Thánh nhân như kiến Thiên tử tại thượng, chư hầu đồng vi thử minh, phi Tề Hầu chi sở đắc chuyên, nhi kiền cương do vị thường truy dã. Thánh nhân vi tôn Chu nhị tác, đặc thư chi viết đồng minh, nãi phù vương ức bá chi chỉ. Chú vị: Đồng minh đồng tôn Chu đồng ngoại Sở, nhất tự lập hứa đa nghĩa. Phù! Xuân Thu thư sự, nhân Lỗ sử cựu văn, gian hữu đặc phát nhất nhị nghĩa, nãi Thánh nhân thân bút, đồng minh tự hữu bá thuỷ, khả kiến văn lý mật sát, đương mặc hội chi khả dã. Nhược viết bị sự vi bỉ nghĩa, thử sự vi thử nghĩa, khủng tạc. Hội tự thượng Công, tác Công hội, nhiên thị hậu đa một Công chi văn, cái hữu thâm ý, đương tòng tủ.

[Kinh văn]: Mùa đông, tháng 12, Trang Công họp với các quan Tề Hầu, Tống Công, Trần Hầu, Vệ Hầu, Trịnh Bá, Hứa Nam, Hoạt Bá, Đằng Tử cùng hội thề ở đất U nước Tống.

Tả truyện: Là Trịnh xin giảng hoà.

Công Dương: Thế nào là cùng hội thề? Là đồng lòng vậy.

Cốc Lương: Là đồng lòng tôn kính nhà Chu.

Quản kiến: Kinh Dịch quẻ Đồng Nhân nói: “Chỉ có người quân tử mới có thể thấu hết được cái trí của thiên hạ.” Vậy thì cùng hội thề ở đất

U, cái trí của thiên hạ đã thông suốt chưa? Trả lời rằng: Kết cục Trịnh không đến chầu. Lỗ lại trái với lời thề ước, sao có thể gọi là thông suốt được? Cùng hội thề là làm cho những kẻ cùng chí hướng tôn kính Thiên tử nhà Chu, không cho phép Tề tự đề cao mình. Nhà Chu dẫu suy, nhưng mệnh trời chưa thay đổi, thì cành cây ngọn cỏ đều là ở trong bờ cõi nhà Chu, mỗi người dân mỗi sinh vật, đều là bầy tôi của nhà Chu. Tề chỉ mượn oai Thiên tử để ra hiệu lệnh cho chư hầu. Một sớm, nghiễm nhiên nắm tai trâu, được làm chủ hội thề, thì tất cả chư hầu được Tiên vương phong thưởng, phải nghe theo mệnh lệnh của một nước, bầy tôi làm giường mối cho vua, đó là sự biến đổi lớn của thế đạo vậy. Cống vật bày ra sân hàng trăm thứ, bắt đầu từ lần hội thề này, công của ngũ bá chỉnh đốn thiên hạ tuy không nhỏ, nhưng lại có tội khởi xướng làm điều phi nghĩa. Cho nên trước khi cùng hội thề ở đất U, thì chưa nêu ra nghĩa chữ “cùng,” dẫu có cùng hội thề cũng chỉ là tự cùng hội thề với nhau, không liên quan gì đến việc trong thiên hạ. Từ khi cùng hội thề ở đất U, thiên hạ nảy sinh nhiều chuyện.

Kinh Dịch quẻ Kiền, hào Cửu ngũ nói: “Rồng bay trên trời,” hào Cửu tứ nói: “Cá nhảy trong vực sâu,”dưới bay là nhảy, đó là cái tượng dưới Vương có Bá vậy. Bay là hình tượng của vua, nhảy là hình tượng của bầy tôi, đức của vua cao, của bầy tôi thấp. Ý của Kinh Xuân Thu là Thánh nhân như thấy Thiên tử ở trên, chư hầu cùng nhau dự hội thề này, không phải Tề Hầu được chuyên quyền, và kỷ cương vẫn chưa đổ nát. Thánh nhân vì tôn nhà Chu mà làm Kinh Xuân Thu, đặc biệt chép là “đồng minh” là có ý nêu cao Thiên vương mà ức chế bá chủ. Nếu như chú giải rằng: “Đồng minh” là cùng tôn nhà Chu, cùng gạt bỏ nước Sở, thì một chữ mà lập ra nhiều nghĩa. Kìa như! Kinh Xuân Thu chép việc, dựa theo lời văn cũ của sử nước Lỗ, thỉnh thoảng mới thêm vào một, hai nghĩa, đó là ý riêng của Thánh nhân. Chữ “đồng minh” bắt đầu từ lúc bá chủ ra đời, đủ thấy rõ, Kinh Xuân Thu văn nghĩa kín đáo tinh tế, đọc nó phải nghiền ngẫm mới hiểu được. Còn như bảo việc này là nghĩa này, việc kia là nghĩa kia, e rằng nói thế là xuyên tạc. Còn có thuyết cho rằng, trên chữ “hội” có chép chữ “Công” (Lỗ Trang Công) thành “Công hội,” nhưng xem Kinh văn sau này nhiều chỗ không chép chữ “Công” chắc là có thâm ý. Vậy nên theo lời bàn của họ Tả.

邾子克卒。

穀梁:其曰子,進之也。

管見:小國間於大國,而能以小事大,保其國家,全其名 分,如邾子者,可謂賢矣。當時如紀宿譚遂,以小弱為大國所 滅。在彼雖有可滅之道,邾克乃能以功進爵。存亡與興廢,由 我而由人乎哉。春秋之進,邾子孟子之見滕文其意一也。

Châu Tử Khắc tốt.

Cốc Lương: Kỳ viết tử, tiến chi dã.

Quản kiến: Tiểu quốc gian ư đại quốc, nhi năng dĩ tiểu sự đại, bảo kỳ quốc gia, toàn kỳ danh phận, như Châu Tử giả, khả vị hiền kỹ. Đương thời như Kỷ Túc Đàm Toại, dĩ tiểu nhược vi đại quốc sở diệt. Tại bỉ tuy hữu khả diệt chi đạo, Châu Khắc nãi năng dĩ công tiến tước. Tồn vong dữ hưng phế, do ngã nhi do nhân hồ tai. Xuân Thu chi tiến, Chu Tử Mạnh Tử chi kiến đằng văn kỳ ý nhất dã.

[Kinh văn]: Quan Châu Tử tên là Khắc mất.

Cốc Lương: Kinh văn chép tước “tử” là thăng tước cho Châu Tử.

Quản kiến: Nước nhỏ ở vào giữa các nước lớn mà biết cách thờ nước lớn để giữ yên nước nhà, bảo toàn danh phận như Châu Tử thật đáng gọi là người hiền. Khi ấy các nước Kỷ, Túc, Đàm, Toại đều vì nhỏ yếu mà bị nước lớn tiêu diệt. Nước Châu tuy ở vào hoàn cảnh có thể bị diệt như các nước nói trên, nhưng Châu Khắc có thể được thăng tước vì đã có công tự bảo tồn. Thế mới biết còn hay mất, thịnh hay suy là do mình chứ có phải do người đâu. Kinh Xuân Thu thăng tước cho Châu Tử so với việc Mạnh Tử yết kiến Đằng Văn Công đều cùng một ý vậy.

CHÚ THÍCH:

1. Mạnh Tử khi yết kiến Đằng Văn Công có nói: “Con người ta tính vốn thiện, ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn.” Đó là có ý khuyến khích con người ta tu dưỡng để trở thành người có đạo đức như Nghiêu Thuấn.

[莊公]十有七年

春,齊人執鄭詹。

左傳:鄭不朝也。

公羊:此鄭之微者,書甚佞也。

穀梁:以其逃來志之也。

管見: 鄭詹鄭之大夫也,以國氏者,見罪之不在詹也。鄭 懼楚而不朝齊,使詹以告桓公,當反諸己,蓋有可侮之道, 而後取侮於人。荆楚憑陵,蔡鄭先受其害,伯主若不聞焉。借 曰勢未可圖,亦當播告諸侯,示以同仇之義,揚其必伐之 威,則小懷大畏,孰敢不朝?乃不能然,惟鄭之不朝是讓。又 執其大夫,欲以示武,而不自知其甚軟也。金人執宋使朝昉, 金主雍曰: 邊事元帥府隨宜措,行人何罪?可即放還。真王者之 言也!國體重輕,何與執使。書執惡之也。公穀佞人之說皆非。

[TRANG CÔNG] THẬP HỰU HỮU THẤT NIÊN

Xuân, Tề nhân chấp Trịnh Thiêm.

Tả truyện: Trịnh bất triều đã.

Công Dương: Thử Trịnh chi vi giả, thư thậm nịnh dã.

Cốc Lương: Dĩ kỳ đào lại chí chi đã.

Quản kiến: Trịnh Thiêm Trịnh chi Đại phu dã, dĩ quốc thị giả, kiến tội chi bất tại Thiêm dã. Trịnh cụ sở nhi bất triều Tề, sử Thiêm dĩ cáo Hoàn Công, đương phản chư kỷ, cái hữu khả vụ chi đạo, nhi hậu thủ vụ ư nhân. Kinh Sử bằng lăng, Sái Trịnh tiên thụ kỳ hại, bá chủ nhược bất văn yên. Tá viết thế vị khả đồ, diệc đương bá cáo chư hầu, thị dĩ đồng cừu chi nghĩa, dương kỳ tất phạt chi uy, tắc tiểu hoài đại uý,

« TrướcTiếp tục »