Hình ảnh trang
PDF
ePub

chừa chỗ ghi tên tác phẩm, khổ 27x16. Toàn bộ tập sách chép 4 tập thơ của Ngô Thì Nhậm:

Tờ la tập Bút hải tùng đàm, gồm 78 bài thơ.

Tờ 22a tập Thủy vân nhàn vịnh, gồm 56 bài thơ.
Tờ 39 b tập Ngọc đường xuân khiếu, gồm 74 bài thơ.

Tờ 63a tập Cẩm đường nhàn thoại, gồm 69 bài thơ.

Trước mỗi tập thơ đều ghi: Ngô gia văn phái. Tiến sĩ Thượng thư Hi Doãn công di thảo. 74 bài thơ chép trong tập Ngọc đường xuân khiếu này, thứ tự sắp xếp giống như bản nền VHv.16/3 đã nêu trên.

3. Bản ký hiệu thư viện A.177c/1 (Kí hiệu ghi lại tại bản chụp: A.117/31), gồm 258 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, viết thảo và đá thảo, khổ 27x16. Toàn bộ tập sách chép thơ văn Ngô Thì Nhậm:

Tờ la tập Bút hải tùng đàm, gồm 94 bài thơ.

Tờ 44a tập Ngọc đường xuân khiếu, gồm 66 bài thơ.

Tờ 66a tập Hoa trình gia ấn, gồm 21 bài thơ.

Tờ 108a tập Kim mã hành dư (văn).

Tờ 202a tập Hào mân ai lục (văn).

66 bài thơ của tập Ngọc đường xuân khiếu này, thứ tự sao chép giống như hai bản đã nêu trên, nhưng chép thiếu 6 bài và chép dôi ra 1 bài so với hai bản nền. 6 bài thiếu: Thu tử tứ tuyệt - 4 bài; Ký kiến; văn giá cô thanh; Trai cung thị lậu; Xuân mộ; Khấp đệ Học Tốn thị; 1 bài dôi ra: Thần phó học tức sự, xin bổ sung bài này vào cuối tập thơ. Như vậy tập Ngọc đường xuân khiếu có 75 bài thơ.

Trên đây là đôi nét về niên đại sáng tác và tình trạng văn bản của tập thơ Ngọc đường xuân khiếu, bạn đọc tham khảo.

**

PHIÊN ÂM:

DỊCH NGHĨA:

1. 晚秋參禪

屈指飄蓬既五年
今秋村寺一參禪
菊花初掛黄金甲
貝葉重呫白玉銓
往事幾回槐國夢
故吾依舊竹樓緣
靈庵自在靈光靜
爽入銀鉤秀水漣

VÃN THU THAM THIỀN

Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên,

Kim thu thôn tự nhất tham thiền.

Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp;
Bối diệp trùng chiêm bạch ngọc thuyên.
Vãng sự kỷ hồi hòe quốc mộng;
Cố ngô y cựu trúc lâu duyên.
Linh am tự tại linh quang tĩnh,
Sảng nhập Ngân Câu tú thủy liên.

THAM THIỀN VÀO BUỔI CUỐI THU

Bấm đốt ngón tay, đã năm năm phiêu dạt,
Mùa thu này mới được tham thiền ở chùa quê.
Hoa cúc vừa nở như treo lên mảnh giáp vàng;
Kinh lá bối lại lầm rầm theo dùi mõ ngọc trắng)
Việc cũ mấy phen, chỉ là giấc mơ nước hoè;3)
Ta vẫn như xưa, vấn vương duyên lầu trúc.
Am thiêng còn đó, ánh màu nhiệm lắng trong,
Sáng rọi ao Ngân Câu, gợn nước lăn tăn.

CHÚ THÍCH: 1.Tham

thiền: Chữ nhà Phật, lặng giữ tâm hồn yên tĩnh để nghiền ngẫm thấu suốt chân lý đạo Phật.

2.Kinh lá bối: Ở Ấn Độ xưa có loại lá cây mà tiếng Phạn gọi là “Bối đa” dùng để viết kinh thay giấy. Trong văn thơ dùng để chỉ Kinh Phật.

Dùi ngọc trắng, nguyên văn là: Bạch ngọc thuyên (Cán cân ngọc trắng). Ở đây chỉ dùi gõ mỏ của sự sãi trong chùa khi tụng kinh.

3.Giấc mơ nước hoè: Theo Dị văn lục, Thuần Vu Phần uống rượu say nàm ngủ dưới gốc cây hoè, mơ đi vào trong một hang lớn, tới một nước có tên Hòe An, được vua nước này gả cho công chúa, bổ làm Thái thú quận Nam Kha. Sau được cử đi đánh giặc bị thua trận, công chúa cũng chết, vua nghi ngờ bèn cho về. Giữa lúc ấy thì Vu Thuần tỉnh giấc, vội tìm dưới gốc cây hòe thấy một cái hang, trong đó có con kiến chúa lớn. Hang kiến thông lên cành hoè trỏ về hướng nam (nam kha). Nhân đó, người đời sau thường gọi là giấc mơ hòe, hay giấc mộng Hòe An, hoặc giấc mộng Nam Kha, có ý ví cuộc giầu sang trên đời chẳng qua như giấc mộng.

4.Câu này ý nói, ta vẫn là ta, vẫn như xưa kia có duyên với cảnh thiền. Có thể cấu này nhắc đến lầu trúc trong bài “Hoàng Châu trúc lâu kí,” một học giả đời Tống, quê vùng Vũ Xương từng dựng lầu trúc, mái cũng lợp bằng trúc để làm nơi “đốt hương ngồi lặng, rũ bỏ mọi lo lắng trên đời”.

5.Ngân Câu: (Nguyên chú: Tên ao), có lẽ ở trước đền thờ. “Ngân câu”cũng dùng để chỉ trăng non hình như chiếc móc câu bằng bạc. Vậy câu này có thể dịch: “Nhập vào ánh trăng lung linh, gợn làn nước đẹp lung linh.”

2. 登岵 山有感

天涯夜夜夢衣冠
遊子今番拜岵山
萬古精神餘翠蓋
六秋風月老蒼竿
慈悲樂國佛天上
離合浮漚人世間
翰墨書香流慶遠
黌宮山影銳江瀾

PHIÊN ÂM:

DỊCH NGHĨA:

KHẢO DỊ:

[blocks in formation]

.(2)

Nơi chân trời, đêm đêm luôn mơ tới việc mũ đai,
Đứa con đi xa, nay mới lên bái lạy núi Hỗ đây.
Tinh thần muôn thuở, còn lại chiếc lọng biếc:
Trăng gió sáu thu, dãi dầu với đám cỏ xanh.
Trên tầng trời của Phật, là cõi từ bi cực lạc;
Người trong thế gian tan, hợp như bóng nước trôi.
Bút mực thư hương, phúc nhà truyền mãi,

Như bóng núi Huỳnh Cung rọi nước sông Nhuệ đầy.

a.Bản A.1170/1: Vọng y quan kí

CHÚ THÍCH:

1.Núi Hồ, theo Nhĩ nhã và Thuyết văn thì là núi có nhiều cây cỏ. Sau đó được dùng để chỉ người cha đã mất. Kinh Thi có câu: “Trắc bỉ Hỗ hề, chiêm vọng phụ hề” (Lên núi Hỗ kia, trông ngóng cha mẹ ta). Ở đây mượn để chỉ nơi thờ cúng cha mẹ.

2.Chiếc lòng biếc (thúy cái): Người thi đậu đại khoa được che lọng xanh biếc. Trong thơ ý nói, nơi thờ cúng cha hiện nay còn chiếc lọng xanh biếc.

3.Sáu thu, chỉ phần mộ của cha tác giả đã sáu năm (Ngô Thì Sĩ mất 1780, vậy bài thơ này sáng tác năm 1786).

4.Huỳnh Cung: Nhà dạy học. Ở dây mượn để chỉ truyền thống thi thư của gia đình tác giả.

DỊCH THƠ:

PHIÊN ÂM:

Tối tối bên trời mộng áo đai,
Con xa bái lậy núi Hỗ đây.
Tinh thần muôn thuở che ô biếc;
Trăng gió sáu thu, dãi cỏ dày.
Tan hợp kiếp người như bóng nước;
Từ bi cửa Phật đẹp trời mây.

Thư hương bút mực lưu truyền mãi,

Bóng núi Huỳnh Cung, sóng Nhuệ đầy.

3. 銳江夕泛

今年遊勝昔年遊
秋夕秋天穩泛秋
靜水一條張素練
疏星幾點映孤舟
斜陽古樹金光射
寒渚魚燈焰影浮
不夜樓臺何處訪
靈臺方寸有真修

NHUỆ GIANG TỊCH PHIẾM

Kim niên du thắng tích niên du,

Thu tịch thu thiên ổn phiếm thu.
Tĩnh thủy nhất điều trương tố luyện
Sơ tinh kỉ điểm ảnh cô chu.
Tà dương cổ thụ kim quang xạ;
Hàn chử ngư đăng diệm ảnh phù.
Bất dạ lâu đài hà xứ phỏng,
Linh đài phương thốn hữu chân tu.

Lâm Giang

« TrướcTiếp tục »