Hình ảnh trang
PDF
ePub

PHIÊN ÂM:

垂紳合當來元老
免冑真如憶令公
絳闕雲高韶護邇

柳營依約太清鍾

TẶNG TRUNG THƯ KỶ THIỆN HẦU TỈNH NGỮ

Tư giả:

Bảo ly chấn chính; cổn tú ngôn tuyền.

Chiêm tuý biểu ư thừa minh; tấu phong thi ư ôn thất.

Hoàng phát hy triều thị thức, tuân nghi tiền tịch chi một hồi; thạc

lỗ tân quốc cụ chiêm, hề khánh cao sơn chi kiều ngưỡng.

Đường thi nhất thủ, liêu ngụ thốn hoài:

DỊCH NGHĨA:

[blocks in formation]

TẶNG QUAN TRUNG THƯ KỶ THIỆN HẦU KÈM LỜI DẪN

Ngày nay:

Sửa sang chính sự; áo gấm trở về.

Xem tờ biểu tươi sáng ở điện Thừa Minh; tâu bài thơ phong nhã ở phòng Ôn Thất

Râu tóc vàng, làm cho triều thịnh phải kính, thân mật hầu trước chiếu thật nên; công trạng lớn, khiến cho nước mới đều trông, nghển kiễng ngắm non cao đâu hết.

Thơ Đường một vận, tạm gửi tấc lòng:

Gió mùa xuân và mặt trời mùa đông,

Đều cảm thấy vẫn còn mãi niềm yêu thương rất mực.

Như trúc bờ sông Kỳ, uy nghi kính cẩn;

(4)

Tựa thông trong mùa lạnh, tư thế kiên cường.

Rủ đại áo, vừa đúng đến với bậc nguyên lão;

KHẢO DỊ:

Bỏ mũ trụ, thật sự nhớ tới ông nhà.

Cửa son, mây thì cao, mà tiếng nhạc Thiều Hộ thì gần,
Trại doanh liễu, chuông lầu Thái Thanh phảng phất.)

a.Bản VHv.1743/22: Báo chính k .

b.Bản VHv.1743/22: Hải trung

c.Bản VHv.1743/22: Vân khai .

CHÚ THÍCH:

1.Kỷ Thiện hầu, tức Trần Văn Kỷ, người tiến cử Ngô Thì Nhậm cho Nguyễn Huệ, năm 1787.

2.Điện Thừa Minh: Là nơi để bầy tôi đến chờ chực việc công. Điện này có từ đời Hán.

3.Ôn thất: Nhà do Hán Vũ Đế dựng nên để ở cho ấm khi mùa đông đến. 4.Cây trúc bên sông Kỳ: Thơ Kỳ úc ở Vệ phong, Kinh Thi, ca ngợi Vệ Võ Công là bậc quân tử có đức độ biểu hiện đáng kính.

5.Thiều Hộ, tên một khúc nhạc do vua Thang đời nhà Ân làm ra, sau dùng để chỉ khúc nhạc sáng tác trong cung đình.

6.Trại doanh liễu, là nơi đóng quân của Chu Á Phu tướng nhà Hán ở đất Tế Liễu. Sau dùng để chỉ nơi đóng quân nói chung.

Lầu Thái Thanh, nơi vua nhà Tống dùng để thết yến các bậc đại thần.

DỊCH THƠ:

Gió xuân, vầng nhật sưởi mùa đông,

Trìu mến ghi sâu tại đáy lòng.
Khí phách kiên cường tùng tháng rét;
Uy nghi đĩnh đạc trúc bờ sông.
Rủ đai đáng trọng người nguyên lão;
Treo mũ càng khen đấng lệnh công.

Cung khuyết mây cao gần tiếng nhạc,

Liễu doanh xa vọng mấy hồi chuông.

Đào Phương Bình

72. 和眷弟同樂氏並語

同樂君衛我于艱,履跋江湖,以有今日。一味恬 淡,寒齋守約。雖我能吹噓人溫飽人,而粗羹糲 飯,破帽敝裘,不與易也。此其志可尚其操可敬。今我 以次子某與之同居,甥舅天屬,豈須以寒溫為託,相勉

進修,學加勤行加勵。此我所深望也。此次入覲春 京,屈指回軺,又當在今日梅魁時侯,入以詩相 贈,因書復之。

陽關三疊見勤拳
字字情懷相萬千
君返故鄉饒樂地
我來上國共長天
暇豫幸今逢旦旦
怡愉向後度年年
贈君處約無他語
斟酌清和養浩然

PHIÊN ÂM:

HOẠ QUYẾN ĐỆ ĐỒNG LẠC THỊ TỊNH NGỮ

(a)

Đồng Lạc quân vệ ngã vu gian, lý bạt giang hồ, đĩ hữu kim nhật. Nhất vị điềm đạm, hàn trai thủ ước. Tuy ngã năng suy hư nhân ôn bão nhân, nhi thô canh lệ phạn, phá mạo xưởng cừu, bất dữ dị dã. Thử kỳ chí khả thượng kỳ tháo khả kính. Kim ngã dĩ thứ tử mỗ dữ chi đồng cư, sanh cữu thiên thuộc, khởi tu dĩ hàn ôn vi thác, tương miễn tiến tu, học gia cần hành gia lệ. Thử ngã sở tham vọng dã. Thử thứ nhập cận Xuân kinh, khuất chỉ hồi thiều, hựu đương tại kim nhật mai khôi thời hậu, nhập dĩ thi tương tặng, nhân thư phục chi.

(c)

(d)

Dương Quan tam điệp hiện cần quyền,

Tự tự tình hoài tương vạn thiên.

Quân phản cố hương nhiêu lạc địa;

Ngã lai thượng quốc, cộng trường thiên.

Hạ dự hạnh kim phùng đán đán;

Di du hướng hậu độ niên niên.

Tặng quân xử ước vô tha ngữ,

Châm chước thanh hoà dưỡng hạo nhiên.

DỊCH NGHĨA:

HOẠ BÀI THƠ CỦA NGƯỜI EM HỌ LÀ ĐỒNG LẠC

KÈM LỜI DẪN

Em Đồng Lạc giúp ta trong lúc gian nan, từng phải băng sông vượt hồ, mới có được ngày nay. Em là người luôn luôn điềm đạm, giữ mực thanh bần. Tuy ta có thể hà hơi cho người, làm no ấm cho người, thế nhưng em vẫn canh xoàng cơm hẩm, áo rách mũ tàng, một mực như xưa. Đó là cái chí của em đáng trọng, cái nết của em đáng kính. Nay ta đưa con thứ hai “mỗ” đến cùng ở với em, cậu cháu là chỗ tình thân thích, đâu phải gửi gắm để chăm lo lúc nóng lạnh, mà cốt để cậu cháu khuyên nhau tu thân tiến bộ, học cho chăm, hành cho gắng. Đó là điều trông mong sâu sắc của ta vậy. Lần này, ta vào triều kiến ở kinh đô Phú Xuân, chẳng mấy chốc sẽ quay xe trở về, có lẽ vào đúng mùa hoa mai nở năm nay. Em đem thơ tặng ta, do đó ta viết bài thơ này họa lại):

KHẢO DỊ:

Ba lần hát khúc Dương Quan, thể hiện sự ân cần,

Mỗi chữ mỗi tâm tình, muôn ngàn gắn bó.
Em trở về quê, nơi dào dạt nguồn vui;

Ta đến thượng quốc, với cảnh trời xa thẳm.
Trước mắt, ngày ngày may được nhàn rảnh,
Về sau, năm năm sẽ hưởng yên vui.

Tặng em lời kiệm ước, không lời nào khác,

Châm chước “thanh hoà” để dưỡng khí hạo nhiên.

[blocks in formation]

1.Đồng Lạc: Chưa rõ tên húy, là em vợ cả Ngô Thì Nhậm ở Bách Tính, đạo Sơn Nam (Vũ Thư, Thái Bình), nơi Ngô Thì Nhậm lánh nạn, năm 1782

1786.

2.Khúc Dương Quan: Vương Duy, nhà thơ đời Đường, bẻ cành liễu tặng người bạn đi xa và tặng bài thơ nhắc đến Dương Quan là tên cửa ải miền Cam Túc xa xôi. Cho nên, Dương Quan là khúc hát tặng biệt.

3.“Thanh” “hòa”: Sách Mạnh Tử chép: “Bá Di là thánh chí thanh; Liễu Hạ Huệ là thánh chí Hoà.” Ở đây tác giả khuyên em nên cư xử sao cho vừa phải, đừng lệch lạc. Khí hạo nhiên là khí quang minh chính đại, có khi còn gọi là chính khí.

PHIÊN ÂM:

DỊCH NGHĨA:

73.泣弟學遜氏

思公一度一霑襟
公沒伊誰識我心
天上有人朝北斗
世間無價買南金
一家翰柳誠難事
兩處牙期杳好音
英發精神應不死
至人變化老松林

KHẤP ĐỆ HỌC TỐN THỊ

Tư công nhất độ nhất chiêm khâm,

Công một y thùy thức ngã tâm.

Thiên thượng hữu nhân triều Bắc Đẩu;

Thế gian vô giá mãi Nam câm.

Nhất gia Hàn Liễu thành nan sự;

Lưỡng xứ Nha Kỳ yểu hảo âm.

Anh phát tinh thần ưng bất tử,
Chí nhân biến hóa lão tùng lâm.

KHÓC EM HỌC TỐNG

Mỗi lần nhớ ông, là một lần vạt áo đẫm nước mắt,
Ông mất đi, ai người hiểu biết lòng ta?

Trên trời, có người chầu sao Bắc Đẩu;

.2)

Thế gian, không giá nào mua nổi Nam kim.
Hàn, Liễu một nhà, thực là việc khó;)

Nha, Kỳ đôi nẻo bặt âm tín hay

Anh hoa phát tiết ra tinh thần, nên chẳng chết,

Bậc “chí nhân” biến hóa mãi nơi rừng thông

« TrướcTiếp tục »