Hình ảnh trang
PDF
ePub

CHÚ THÍCH:

Nơi đá ngầm Thái Thạch lần này sẽ lặng sóng kình,

Chốn gác vàng chỉnh mũ, đợi chén mừng công.

1.Phan Thụy Nham: Tức Phan Huy Ích (1751- 1822), vì cha Phan Huy Ích là Phan Huy Cẩn dời nhà ra ở Thụy Khê, thuộc phủ Quốc Oai (Sơn Tây), nên Phan Huy Ích lấy tên hiệu Thuỵ Nham. Ông người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (nay là Can Lộc- Hà Tĩnh) là em rể và đỗ Tiến sĩ cùng khoa với Ngô Thì Nhậm, năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), được bổ Hàn lâm thừa chỉ. Nhà Lê mất, ông cộng tác với nhà Tây Sơn, làm quan tới Lễ bộ Thượng thư. Tây Sơn mất, ông và Ngô Thì Nhậm bị nhà Nguyễn đưa ra đánh đòn ở Văn Miếu, sau về ở ẩn. Bài thơ này có lẽ Ngô Thì Nhậm viết tiễn Phan Huy Ích được lệnh vua Lê Chiêu Thống cầm quân vào Nghệ An đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, trước khi ra quân, ông nói sẽ làm cái trống để nhốt Nguyễn Hữu Chỉnh đưa về kinh, nhưng lần ấy ông thua trận (Hoàng Lê nhất thống chí).

2.Đá ngầm Thái Thạch: Thái Thạch cơ, một địa điểm bên núi Ngưu Chử tỉnh An Huy Trung Quốc, nơi Ngu Doãn Văn đời Tống, một viên tướng xuất thân

nho sĩ đã đánh một trận lớn, làm cho quân Kim đại bại.

7. 過朱文貞公廟有懷二首

其一

影照山頭潭水湄
風光不改太平辰
民家作息濠魚樂
世局升沉野鳥飛
提劍斯遊殊孟浪
掛冠往事尚依稀
戶朱擬築蓮花室
隱約寒紺傍柳絲

PHIÊN ÂM:

QUÁ CHU VĂN TRINH MIẾU HỮU HOÀI NHỊ THỦ
KỲ NHẤT

DỊCH NGHĨA:

Ảnh chiếu sơn đầu đàm thủy mi
Phong quang bất cải thái bình thì.
Dân gia tác tức hào ngư lạc;
Thế cục thăng trầm đã điểu phi.
Đề kiếm tự du thù mạnh lãng;
Quải quan vãng sự thượng y hy.
Hộ Chu nghĩ trúc liên hoa thất
Ẩn ước hàn cam bàng liễu ty.

CẢM XÚC KHI QUA MIẾU CHU VĂN TRINH HAI BÀI
BÀI 1

CHÚ THÍCH:

Đầu non bóng rọi, bên đầm nước,

Quang cảnh chẳng đổi thay, vẫn như thời thái bình.
Người dân lúc làm, lúc nghỉ, cá dưới hào nhởn nhơ; 2)
Cuộc thế thăng trầm, chim đồng bay liệng.
Cầm gươm trong cuộc chơi này, thực là mạo muội; 3)
Việc treo mũ xưa, vẫn còn phảng phất đâu đây.
Đền họ Chu phỏng dựng theo toà nhà hoa sen,
Lặng lẽ thấp thoáng bên hàng tơ liễu.

(5)

(4)

1.Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (1292-1370), tự là Linh Triệt và Văn Trinh, hiệu Tiều Ẩn, người làng Quang Liệt huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông là người ngay thẳng trong sạch, có tài văn chương. Thi đậu Thái học sinh nhưng ở nhà dạy học. Đến đời Trần Minh Tông được vời ra làm Quốc Tử giám Tư nghiệp. Đời Trần Dụ Tông, dâng “Thất trảm sớ,” xin chém bẩy nịnh thần, nhưng không được vua chấp thuận. Ông bèn xin từ chức về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, thuộc Chí Linh, Hải Dương. Khi mất được lập miếu thờ ở Chí Linh và đền thờ ở quê nhà, đền dựng trên nền nhà dạy học cũ của Chu Văn An.

2.Niềm vui cá dưới hào (Hào ngư lạc): Trang Tử đi chơi với Huệ Tử trên cầu vào thành, thấy cá bơi lội dưới hào, bèn nói: “Cá bơi tung tăng là niềm vui của cá.” Ý chỉ niềm vui của mọi sinh vật hưởng cuộc sống (Trang Tử - Nam hoa kinh, thiên Thu thuỷ).

3.Cầm gươm: Chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, thường gọi Thất trảm sớ.

4.Treo mũ (quải quan), nói việc sĩ phu từ chức. Ở đây nói việc Chu Văn An sau khi dâng Thất trảm sớ đã từ quan về ở ẩn.

5.Họ Chu (Hộ Chu – cửa họ Chu), chỉ Chu Văn An. “Hộ chu,” cũng có thể hiểu “Theo của họ Chu.” Tiên nho xưa có câu: “Gia Khổng Mạnh nhi hộ Trình Chư” (Ở nhà họ Khổng, họ Mạnh; theo của họ Trình, họ Chu).

Toà nhà hoa sen, nơi thờ Phật, ở đây chỉ ngôi đền thờ Chu Văn An ở Huỳnh Cung (thuộc xã Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội), dáng dấp như một ngôi

[merged small][merged small][ocr errors][merged small][merged small][merged small][merged small]

PHIÊN ÂM:

KỲ NHỊ

Si nhi bất liễu Đông A sự,

Toại sử chân nho tá Thượng Phương.
Trù trưởng kê lâu không thướng Bạch;
Âm thâm Lộc Động hữu Cung Hoàng.
Nịnh thần hủ cốt tri hà xứ;

Văn nhạc phong cao trĩ thử hương.

Đa thiểu cao đàm nguy toạ khách,
Dã tri phu tử vị tài cuồng.

DỊCH NGHĨA:

BÀI 2

Trẻ thơ ngây không hiểu việc triều đình Đông A,

(2)

Khiến phải mượn đến kiếm Thượng Phương của bậc chân nho.
Luống những ngậm ngùi, (vì có kẻ muốn] bước lên lầu gà trắng (3)
Nhà học Lộc Động sâu kín, có ở làng Cung Hoàng (4)

Nắm xương tàn bọn nịnh thần, biết ở chốn nao;(5)
[Chỉ có] núi Văn ở bên làng sừng sững.

Biết bao nhiêu khách ngồi cao tán rộng,

Bởi biết phu tử chưa sửa cho thói cuồng ngông. CHÚ THÍCH:

1.Đông A, tức nhà Trần, vì chữ “đông” ghép với bộ “phụ” của nửa chữ a, thành chữ Trần.

Trẻ thơ ngây, chỉ việc Trần Dụ Tông lên ngôi năm 1341, khi mới lên 7 tuổi (Dụ Tông sinh năm 1336).

2.Thượng Phương, tên thanh bảo kiếm của vua chúa. Chu Vân, Lệnh doãn ở Hoè Lý, dâng thư lên Hán Thành Đế có câu: “Nguyện tá Thượng Phương kiếm, trảm đoạn nịnh thần đầu”(Xin mượn thanh gươm Thượng Phương, để chém đầu bọn nịnh thần). Hai cây này ý nói, vì bọn nịnh thần lộng quyền, nên khiến cho ông phải dâng Thất trảm sớ.

3.Lầu gà trắng: Sử chép: Năm 1394, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, một

đêm nằm mơ thấy Duệ Tông (mất năm 1377) đến đọc một bài thơ:

中間惟有赤嘴侯

殷勤上白雞樓

Trung gian duy hữu xích chủy hầu,

Ân cần tiếm thượng bạch kê lâu.

(Trong đó chỉ có tước hầu mỏ đỏ,

Lăm le muốn vượt lên lầu gà trắng).

Tỉnh dậy, vua tự đoán rằng: Quý Ly đỏ môi, tức.“xích thủy hầu;” lầu gà trắng là mình (Nghệ Tông), sinh năm Dậu. Tân thuộc phương tây, sắc trắng, dậu là gà. Vậy thì trước sau Quý Ly cũng tiếm ngôi. Tác giả bùi ngùi thay Chu Văn An. Ở đây dùng 4 chữ: “Thướng bạch kê lâu” tách ra làm hai: “Thướng bạch” và “kê lâu” và đặt câu thơ cho đối với câu sau.

4.Lộc Động, tức Bạch Lộc Động, nơi dạy học của Chu Hi đời Tống. Ở đây, chỉ nhà dạy học của Chu Văn An.

Cung Hoàng, tên cũ làng Huỳnh Cung ở huyện Thanh Trì, Hà Nội, nơi Chu Văn An mở trường dạy học trước khi ra làm Tư nghiệp Quốc Tử giám (Huỳnh Cung ở sát thôn Văn quê hương ông).

5.Bọn nịnh thần đã nêu trong Thất trảm sớ, gồm 7 tên.

6.Núi văn: Chỉ thôn Văn, thuộc xã Thanh Liệt, quê của Chu Văn An. Ý thơ dùng hình ảnh núi Văn để tượng trưng cho tài văn học và đạo đức của Chu

Văn An.

9. 與逸士范時透聯韻二首

其一

客來無酒酒無錢
那得長安出醴泉
官舍如冰虛裏白
臣心似水淡中玄
醉翁不在蓴皆趣
知已相逢竹未賢
卻笑詩懷窮益壯
推敲猶自學青蓮

« TrướcTiếp tục »