Hình ảnh trang
PDF
ePub

PHIÊN ÂM:

NGŨ VẪN LÂU CÔNG HÀ KÝ TỊNH NGỮ

DỤNG CÔNG DƯ TIỆP KÝ VŨ DUY ĐOÁN TOÁI NGỌC THỂ DỮ ĐỒNG NIÊN TẢ KHÊ NGUYỄN CHẤT TRAI SOẠN

Kim thượng tái trung hưng chi nguyên niên, thời cường đảng tất bình, quốc nội vô sự. Triều hữu Cao Quỳ Tắc Tiết chi lương, đã bị Nghiêu Thuấn Đường Ngu chi trạch. Cảnh tinh chiêu ứng, thiên nhật khai minh. Phụng thượng đức khế tâm học vấn, khắc ý tác thành. Nạp Kim Giám chi trung ngôn, truy Thạch Cừ chi cựu điển. Dục đắc khoa giáp nhân tài, đại triển trị bình chi uẩn.

Sắc khai Tiến sĩ khoa, Lễ bộ dĩ cửu nguyệt tuyên chỉ, thiên hạ tài học, ứng sắc chỉ phàm thiên dư nhân. Thập nguyệt nhị thập nhật, mệnh Quận công quan, Lễ bộ quan, Đô đài quan đổng kỳ sự, tức Nhĩ Hà tân vi công cán chi sở. Thứ tảo phụng tự Đại nội chí Hà Tân các, văn vũ tiến thị, phong thanh nội yến, nhật thượng thái y, tam quân chi âm hưởng tương văn, lục bộ chi quan liêu hàm tại, thanh bình cảnh sắc, chân ngã triều chi lạc sự dã. Ký nhi nội để khai môn, tiền đình triển kính, lẫm nhược bồi hoàng các nhi tiếp Thiên nhan. Lễ thành phục công thứ, toạ gian cao hội, tương dữ luận thi thư nhi đàm Đường Hán. Nhật hướng mộ, phong lai Thạch Kiều các, nguyệt đáo Thuỷ Qân hồ. Kim kê truyền giác tỉnh chi âm, thái trướng mộng đồng du chi bạn, nhất bôi nhất vịnh, canh hoạ ứng đáp. Ưu du gian, kỳ thưởng tâm vi hà như da? Nhân tương vị viết: Khoa đồ thủ sĩ, thiên nhân tương tham. Quan cổ sự hữu nhị: Phạm Tử Hư du thiên môn, khả kiến huyền cơ, Đổng Tử hạ duy phát phẫn, cập kỳ thiên nhân tam đối, xứng thủ ư Hán. Thực dụng chi văn, cai bác chi học, chí kim truyền tụng. Kỳ sở hữu tự lai giả, đãi ngã Việt thiết khoa, Tiến sĩ tối trọng. Thượng yên vi Trạng nguyên Hoàng giáp, vi Tể tướng Thượng thư. Huân nghiệp minh ư Thái thường, danh tiết truyền ư thực lục. Trí quân khuông quốc, tất do thử đồ. Ninh trực văn chương trung khảo quan, đắc ý ư Tương Như chi kiều, Mông Chính chi đình, thủ trọng ư tang tử thị dã. Hựu ninh trực dĩ khoa giáp, đăng công triều, bão thế vị, việt yếu tân, cực trí ư cao vị hậu lộc dĩ dã.

Ngã bối đồng lý đồng niên, thích kim dương tiến chi thời, đồng dự khảo ti chi nhậm. Đức âm kính phụng, đại tai vương ngôn. Hựu sở dĩ công

thính nhi tịnh văn giả, chỉ đương lập tâm, chính bỉnh bút công, như thuỷ chi bình, như kính chi minh, như thập thủ chi nghiêm. Kỳ thủ đã thất ư lạm, kỳ sả dã vô lưu ư hà, đỗ thiên tiến chi môn, hồi trung hậu chi thể. Yêu quy ư bạt mao chi tài tịnh tác. Hoành từ chi sĩ đồng đăng, dĩ vi quốc gia chi dụng, dĩ phó thiên tử hữu văn chi chí ý. Tư thần tử chi trung ư chức phận dã, nhân phủ thi nhất thủ dĩ ký vân.

DỊCH NGHĨA:

Đôn văn minh chỉ há Nam Cung,
Trạch ẩn sơn tiềm hướng mộ đồng.
Thiên Hán vi chương kim điện thượng;
Vương quan hàm sự Nhĩ hành trung.
Tam bôi tửu bãi phong lai toạ;

Thất bộ thi thành nguyệt đảo không.
Ám lý tu tri thần hữu giảm,

Thử tâm tương dữ nhất công trung.

NHÂN VIỆC CÔNG RỖI RÃI GHI LẠI Ở LẦU NGŨ VÂN

KÈM LỜI DẪN

CÙNG BẠN ĐỒNG NIÊN LÀ TẢ KHÊ HẦU NGUYỄN CHẤT TRAI, SOẠN THEO THỂ TOÁI NGỌC CỦA VŨ DUY ĐOÁN TRONG CÔNG DƯ TIỆP KÝ

Nay vào buổi đầu tái trung hưng, giặc dã đã được dẹp yên, quốc gia vô sự. Trong triều có quan giỏi như Cao, Quỳ, Tắc, Tiết, ngoài nội đủ ơn trạch của thời Nghiêu, Thuấn, Đường, Ngu. Sao đêm rực rỡ, trời đất sáng bừng. Vâng theo đức độ bề trên, dốc bề học vấn, quyết chí tác thành. Dâng lời nói thẳng nơi Kim Giám, noi điển cũ ở gác Thạch Cừ. Muốn chọn nhân tài trong làng khoa cử, dấy lên buổi đại trị bình.

Hoàng thượng ban sắc, mở khoa thi Tiến sĩ. Bộ Lễ tuyên chỉ vào tháng chín, người học giỏi trong thiên hạ hưởng ứng sắc chỉ đến hơn 1000 người. Ngày 20 tháng 10, sai các quan Quận công, quan bộ Lễ, quan Đô đài đôn đốc công việc, chọn bến sông Nhĩ Hà làm nơi công sở. Sáng sớm hôm sau, vâng mệnh nhà vua, từ Đại nội đến gác Hà Tân, các quan văn võ đến chầu, mở bày yến tiệc, mũ áo rực rỡ, âm nhạc vang dội khắp ba quân, các quan viên của sáu bộ đều có mặt, cảnh sắc thanh bình, thật là sự việc vui mừng lớn của triều đình ta. Thế rồi cửa trường mở, sân trước

kính cẩn, nghiêm trang như nơi hoàng các nghênh tiếp Thiên nhan. Lễ xong lại trở về nơi công sở, cùng nhau ngồi luận về thi thư, bàn về Đường Hán. Trời về chiều, gió nổi lên ở gác Thạch Kiều, trăng non soi hồ Thuỷ Quân. Tiếng gà gáy làm tỉnh giấc, trong màn trướng rực rỡ, mơ thấy cùng bạn đi chơi, chén rượu, câu thơ, nối vần ứng đáp. Trong lúc vui vẻ, cảm tưởng thưởng ngoạn sẽ ra sao đây? Vì vậy mà nói với nhau rằng: Con đường khoa cử để chọn kẻ sĩ, trời và người cùng tham dự. Xem việc xưa có 2 người, Phạm Tử Hư đi chơi ở cửa nhà trời mà có thể thấy được huyền cơ, Đổng Tử buông màn phát phẫn, người và trời đối chất, xứng đáng đứng đầu đời Hán. Lối văn thực dụng, sự học uyên bác của ông còn truyền đến ngày nay. Vì vậy từ đó cho đến khi nước Việt mở khoa thi thì người đỗ Tiến sĩ là được trọng vọng nhất. Người đứng đầu là Trạng nguyên, Hoàng giáp, được làm Tể tướng, Thượng thư. Sự nghiệp huân lao ghi ở Thái thường, công danh tiết tháo được truyền ở thực lục. Đến cả việc nhà vua cai trị đất nước cũng đều từ con đường đó. Nhờ vào khảo quan văn chương mà chọn được những người như Tương Như, Mông Chính, coi trọng tuyển chọn ở các làng quê. Lại cũng nhờ những người đỗ đạt mà triều đình được thịnh vượng, nhân dân no ấm, vượt qua được khó khăn, đã có người đứng ở địa vị cao và hưởng lộc hậu.

Bọn ta là người cùng làng, cùng tuổi, nay gặp dịp được tiến cử, cùng được dự chức trách ở khảo ty. Kính vâng lời vua, lớn lao thay lời vua. Lại là người nghe ngóng giải quyết công việc nơi công sở thì nên một lòng ngay thẳng, công bằng khi cầm bút, phải phẳng như nước, phải sáng tựa gương, phải nghiêm túc như 10 ngón tay. Khi chọn người thì không chọn tràn lan, khi bỏ thì không quá hà khắc, ngăn ngừa kẻ hãnh tiến, chọn được người trung hậu. Cốt làm sao chọn được nhân tài ở chốn quê mùa. Người đỗ Hoành từ là người để cho đất nước trọng dụng, phải hết lòng giúp cho nhà vua về mặt văn chương. Nay bề tôi đã làm tròn chức phận, nhân làm bài thơ phúc đáp, để ghi lại việc đó.

Dụ sáng trọng văn, ban xuống Nam Cung,

Người ẩn ở chằm, hay náu ở núi, cùng đều hưởng ứng.

Trên diện vàng, có sông Vân Hán làm vẻ đẹp cho trời;

Trong hành tại, bên sông Nhĩ Hà, vua có quan chức giúp việc.

Ba chén rượu uống cạn, gió thổi tới chỗ ngồi;

Bẩy bước làm song thơ, trăng vừa lên giữa trời.

Nên biết rằng, nơi tối tăm vẫn có thần linh soi tới,

Tấm lòng này hãy cùng giữ cho ngay thẳng, công bằng.

CHÚ THÍCH:

1.Theo lời dẫn thì Ngô Thì Nhậm làm Giám khảo cho khoa thi này. Đây

là khoa thi Chế khoa do vua Lê Chiêu Thống mới kế vị, bất thường mở ra năm 1787.

PHIÊN ÂM:

12. 依碎玉体用雙鴈出群格

與制科陳伯覽撰

德星疊疊萃河津
隨在優遊見景真
文石亭前觀素月
黄金殿上夢佳人
怨來酒欲當筵罷
觸到雞於甚處聞
此意中含難會得
高山流水我知君

Y TOÁI NGỌC THỂ DỤNG SONG NHẠN XUẤT QUẦN CÁCH

DỮ CHẾ KHOA TRẦN BÁ LÃM SOẠN

Đức tinh điệp điệp tụy hà tân,

Tùy tại ưu du kiến cảnh chân.

Văn Thạch đình tiền, quan tố nguyệt;
Hoàng kim điện thượng mộng giai nhân.

Oán lai tửu dục đương diễn bãi;

Xúc đáo kê ư thậm xứ văn.
Thử ý trung hàm nan hội đắc,

Cao sơn lưu thủy ngã tri quân.

DỊCH NGHĨA:

THEO THỂ “TOÁI NGỌC” DÙNG CÁCH “HAI CON NHẠN BAY RA KHỎI ĐÀN” SOẠN CHO CHẾ KHOA TRẦN BÁ LÃM

KHẢO DỊ:

Tầng tầng sao Đức tụ lại bên sông,

Nhởn nhơ tuỳ ý, đúng là cảnh thực.

Trước đình Văn Thạch, ngắm vừng trăng tỏ;3)

Trên điện hoàng kim, mơ gặp giai nhân.
Khi oán hờn đến, muốn thôi ngay tiệc rượu;

(4)

Lúc cảm xúc tới, nghe như có tiếng gà gáy đâu đây.
Ý ấy, chứa đựng bên trong, khó mà hiểu được,
Tôi hiểu ông trong điệu đàn “nước chảy non cao.

99(5)

a.Bản A.117c/1, và bản VHv.16/3: Hựu y toái ngọc, dụng song nhạn xuất quân cách dù Ché khoa Trân Bá Lâm soan又依碎玉體用雙鴈出群格

Bắt hai khỉ 3 (Lại theo thể toái ngọc, dùng cách đôi chim nhạn bay ra khỏi đàn, cùng soạn với Chế khoa Trần Bá Lãm).

b.Bản A.117c/1 chép: x 6 * # * A “Văn thạch đình tiền, quang tố nguyệt.” (Trước đình Văn Thạch, vừng trăng sáng tỏ).

CHÚ THÍCH:

1.Thể “toái ngọc” (ngọc vụn) là thể thơ hoạ vần, song gieo vần lộn xộn, không theo thứ tự bài xướng.

“Hai con nhạn bay ra khỏi đàn”: Ba vần “tân, “chân”, “nhân” của phần trên bài thơ đều thuộc một vần “ân”; hai vần “văn”, “quân” của phần sau của bài thơ lại thuộc hai vần “ăn”, “uân” không giống vần trên. Người ta gọi cách gieo vần như thế là “song nhạn xuất quần” (hai con nhạn bay ra khỏi dàn).

Trần Bá Lãm (1757-1815), người làng Vân Canh, ngoại thành Hà Nội, thi đậu Hoàng giáp Chế khoa (khoa thi đặc biệt do vua Lê Chiêu Thống mở và ra đề) năm 1787, làm quan đến Đốc đồng Hải Dương. Sang đời Gia Long, được bổ Đốc học Bắc Thành.

2.Sao Đức: Tên một chòm sao, theo sách cũ nói, nơi nào có nhiều sao Đức tụ lại, nơi ấy có nhiều người hiền.

3.Đình Văn Thạch, có lẽ chỉ nhà bia ghi tên người đậu Tiến sĩ.

4.Ý ấy, chỉ "oán hờn”, “cảm xúc” ở 2 câu luận trên.

5.Điệu đàn “non cao nước chảy,” theo sách Liệt Tử: Bá Nha và Chung Tử Kỳ là hai người bạn thân. Khi Bá Nha gẩy đàn cầm, ý ở non cao, Chung Tử Kỳ nói: “Khéo thay! Chon von như Thái Sơn.” Ý ở nước chảy, Tử Kỳ nói: “Khéo thay! Mênh mông như sông nước.” Người đời sau dùng tích này để chỉ bạn tri âm.

« TrướcTiếp tục »