PHIÊN ÂM: DỊCH NGHĨA: KHẢO DỊ: KHỐC ĐỆ QUẢNG NGHIỆP QUÂN Bi quân xả ngã lưỡng kinh tuần, KHÓC EM QUẢNG NGHIỆP Thương em bỏ anh đi đã trải hai tuần Cách một nấm đất vàng mà không thể gần nhau được. Như chim đỗ quyên đứt ruột kêu vào hè; Tựa đám cỏ thơm đau lòng tiễn cảnh xuân tàn tạ. Việc thọ yểu, chưa hẳn liên quan tới việc đời; Cảnh tan hợp, chỉ thêm não lòng chiếc thân còn sống. Nghĩ cùng một dòng máu đọng toả sáng thơm tho. a.Bản A.117c/l: Vong đệ Ỉ Ă b.Bản A.117c/1: Vạn lý ‡ £. CHÚ THÍCH: 1.Quảng Nghiệp: Trong Ngô gia thế phả, không thấy nói đến ông này. 2.Gò trúc: Chỉ nơi mộ táng. 22. 神符山望海 挨排最是化工多 大塊由來渾沌槎 Sự sắp đặt phần nhiều do hoá công, Trái đất xưa nay là cái bè hỗn độn. Lõm xuống một doành, chứa ao Thái Dịch;2) Xua bầy đá núi đè chặn lớp sóng xanh. Thời cục tàn rồi, toà miếu thanh u vẫn bên làng Thiết Giáp; Tiệc yến vừa xong, ráng chiều sà xuống khoá chặt vườn đào.(B Biết ngày nào lại thấy vần thơ xướng họa trên hội Tao Đàn. NGUYÊN CHÚ: A.Làng Thiết Giáp tại cửa biển Thần Phù, năm Nhâm Dần (1782) kiêu binh và dân làng sửa sang miếu thần. Nay vẫn còn di tích. [Vũ Duệ, tên thực là Vũ Nghĩa Chi, người làng Trình Xá, huyện Sơn Vi, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Thanh Sơn, Phú Thọ), đậu Trạng nguyên năm Hồng Đức 21 (1490). Đời Lê Chiêu Tông (1516-1522), ông làm quan đến Lại bộ Thượng thư, tước Trình Khê hầu. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, ông theo nhà vua vào Thanh Hoá, đến Lam Sơn, mặc áo mũ lạy lăng miếu, rồi ra cửa biển Thần Phù tự vẫn. Đời Lê Trung hưng lập miếu thờ ông ở đây – N D]. B.Vườn đào ở gần cửa bể Thần Phù, tương truyền là nơi Từ Thức từng qua chơi. [Người đời truyền rằng: Từ Thức, người đời Trần, chơi thuyền ở cửa Thần Phù, gặp nàng Giáng Hương tại vườn đào bên hang núi (sau gọi là động Bích Đào), cùng kết duyên vợ chồng. Ít lâu sau, Từ Thức bỏ về, con cháu đã mấy đời, không ai nhận ra, lại trở về hang cũ, thì chỉ còn chiếc hang không, nên buồn rầu tìm vào núi Hoàng Sơn rồi đi mất – N D]. C.Khi Thuần Hoàng Đế đi đánh Chiêm Thành qua đây, có thơ Ngự chế rằng: “Thuyền lầu đánh trống qua Ô Long” Cảnh hòa nhạc giữa triều đình vua sáng tôi hiền ngày nào, khiến ông bất giác cảm khái như vậy. [Thuần Hoàng Đế, miếu hiệu của Lê Thánh Tông (1460-1496), người sáng lập ra Hội Tao Đàn, tự xưng Tao Đàn nguyên xuý. Năm Hồng Đức 2 (1471), Ngự giá đi đánh Chiêm Thành, khi qua cửa Thần Phù có làm thơ đề vịnh – N D]. CHÚ THÍCH: 1.Núi Thần Phù, tức ngọn núi ngay cửa biển Thần Phù, nằm giữa Ninh Bình và Thanh Hóa. Cửa biển nay đã bị lấp, chỗ cũ nay cách bờ biển hơn chục km. 2.Thái Dịch, tên cái ao rất lớn ở phía tây bắc huyện Tràng An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Hán Võ Đế xây cung Kiến Chương, phía bắc đào ao Thái Dịch, trong ao đắp các hòn núi Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu để tượng trưng cho núi thần ở biển. Ở đây, mượn để ví cửa Thần Phù giống như ao Thái Dịch. 3.Câu này tả cảnh biển Thần Phù, nhưng cũng bao hàm ý trong sử chép. Đời Hùng Vương, vua nam tuần qua cửa biển Thần Phù, gặp sóng to gió lớn, vua bèn sai La Viện đi trước để dẹp sóng, sóng yên thì La Viện cũng mất, được truy phong là Áp Lãng Chân Nhân, lập miếu thờ ở đó. DỊCH THƠ: Sắp đặt tài tình bởi hóa công, Đào Phương Bình 23.登盤阿山感興 曾記陪歡入愛州 CẢM HỨNG KHI LÊN NÚI BÀN A Từng nhớ khi bồi tiếp cuộc vui vào Châu Ái,(2) Chim én trên sông, như sợ mùa hè năm nay; (3) KHẢO DỊ: Khóm lan trong núi, còn nhớ mùa thu năm trước. a.Bản A.117c/1: Đăng Bàn A sơn hữu hoài” Ễ ĐÃ BJ cho đi Nỗi lòng khi lên núi Bàn A. b.Bản A.117c/1: Giá thạch * 6. CHÚ THÍCH: 1.Núi Bàn A, ở xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa. Năm Đinh Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767), Ngô Thì Sĩ làm Hiến sứ Thanh Hóa có đến đây chơi và lập “Quan lan sào” (Ổ ngắm sóng) trong hang núi. 2.Châu Ái, tên xưa của tỉnh Thanh Hóa. 3.Những ngày phiêu dạt, có lẽ là thời kỳ tác giả lánh nạn ở Thái Bình (1782-1786). DỊCH THƠ: Nhớ trước theo hầu đến Ái Châu. Muôn bậc sườn non xanh biếc cao. 24.乂安道中 初度南遊到乂安 Hoàng Tạo |