Hình ảnh trang
PDF
ePub
[blocks in formation]

KHẢO DỊ:

QUA BỜ BIỂN THẦN ĐẦU

.(2)

Khi ta ra tận nơi xem, thì nước bể trong xanh,
Lúc ta trở lại, nước lại liền với bầu trời sáng như cũ.
Bờ biển liền nghìn trùng, vây quanh thiên phủ;
Cách một duyềnh nước là cưỡi lên từng trời.
Thuyền lầu đánh trống, rớt lại tiếng sóng gầm;(3)
Đá lở lấp sông, tăm kình bặt mãi.

Thủy thần dự gì tới việc nhân gian,

Mà ngày đêm rong ruổi không lúc nào nghỉ?

a.Bản A.117c/l: Quan thời thu Hà .

b.Bản VHv.16/3: Y cựu là *.

c.Bản 16/3: Đông minh * BF.

CHÚ THÍCH:

1.Thần Đầu, tức cửa Thần Phù (xem chú thích số 1, bài 22).

2.Thiên phủ (kho trời), chỉ vùng đất mầu mỡ.

3.Thuyền lầu đánh trống (xem nguyên chú C, bài 22).

4.Cá kình: Loại cá dữ ở biển. Ý thơ nói, cửa Thần Phù có đá chặn dòng

nước tưởng tượng như cản lối đi của cá kình vậy.

DỊCH THƠ:

Xưa ra xem bể nước mông mênh,
Nay vẫn trời xanh tiếp mặt duềnh.
• Vây kín kho trời chen nước biếc;
Vượt qua khoảng trống cưỡi trời xanh.
Thuyền lầu giục trống còn gầm sóng;
Đá tảng ngăn sông để chặn kình.
Sao dính việc đời thần gió hỡi!

Ngày đêm xô đẩy khéo vô tình.

PHIÊN ÂM:

40. 布政道中

蜿蜒一帶白鹽城
甬道南回喚布征
古怪民心真可畏
侏璃言語不堪聽
蓬篙室 屋諳居陋
網罟鄉村足治生
咫尺神都三輔地
也應簡樸漸開明

BỐ CHÍNH ĐẠO TRUNG

Uyển diễn nhất đái bạch điêm thành,

Dũng đạo nam hồi hoán Bố Chinh.
Cổ quái dân tâm chân khả uý;
Thù li ngôn ngữ bất kham thịnh.
Bồng cao thất ốc am cư lậu;
Võng cổ hương thôn túc trị sinh.

Hoàng Tạo

DỊCH NGHĨA:

CHÚ THÍCH:

Chỉ xích thần đô Tam Phụ địa,

Dã ưng giản phác tiệm khai minh.

TRÊN ĐƯỜNG BỐ CHÍNH

Thành cát như muối trắng, quanh co một giải,

Từ đường cái quan về phía nam gọi là Bố Chính.
Lòng dân kỳ quái, thực là đáng sợ;

Tiếng nói líu lo, nghe có hiểu đâu.

Cửa nhà gianh cỏ, quê mùa quen nếp sống;

Xóm thôn chài lưới, cũng đủ sinh nhai.

Đất này cách kinh đô Tam Phụ, chỉ trong gang tấc,

Cũng nên từ giản dị, chất phác, dần mở mang văn minh.

1.Bố Chính, là tên cũ Châu Bố Chính, thuộc Chiêm Thành, năm 1069 Chế Củ dâng đất này cho Lý Thánh Tông. Nay thuộc huyện Bố Trạch, Quảng Bình.

2.Đất Tam Phụ: Tên đất thời Hán, gồm kinh sư và hai khu vực bên phải, bên trái. Đây chỉ khoảnh đất gần kinh đô Phú Xuân.

DỊCH THƠ:

Quanh co một dải muối vây thành,
Đường hẻm về nam ấy Bố Chinh.
Cổ quái lòng dân coi đáng sợ;
Líu lo tiếng nói đoán khôn rành.
Xóm làng sinh sống duy chài lưới;
Nhà cửa quê mùa thảy nữa tranh.
Gần gũi kinh kỳ, Tam Phụ ấy,

Nâng dần chất phác đến văn minh.

41. 戲擬瓊林女寄遠

自從車馬出門朝
暗點梅軒實滿條
京有天鴻得路
海門何日鵲填橋

Đào Phương Bình

[blocks in formation]

ĐÙA LÀM THAY CÔ GÁI Ở QUỲNH LÂM GỬI NGƯỜI ĐI XA

KHẢO DỊ:

it.

“Từ buổi sáng, chàng đã ngựa xe ra đi,”

Thiếp thầm đếm cây mai bên hiên, quả trĩu cành.
Chốn kinh đô, ắt có ngày chim hồng thuận lối;2
Nơi cửa bể, biết ngày nào ô thước bắc cầu sang?}
Mây bay làm bạn thiếp, nhòm xuống dãy Tam Điệp;
Mộng cũ theo chàng, nghe khúc nhạc Cửu Chiêu
Hồ Hưng Khánh, bông thược dược vừa nở,)
Chàng đem tặng người đẹp Hán Dương không?

(5)

a.Bản A.117c/1: Hí nghĩ Quynh Lâm nữ hữu ký viễn Là Để sử ta k k

b.Bản A.117c/1: Chiếm 5

c.Bản A.117c/1: Thi .

NGUYÊN CHÚ:

A.Dùng câu thơ của Đỗ Phủ.

CHÚ THÍCH:

1.Cô gái ở Quỳnh Lâm, chưa rõ xuất xứ.

2.Chim hồng thuận lối, chỉ việc thi đậu làm quan.

3.Ô thước bắc cầu, theo Phong tục ký, đêm mùng bẩy tháng bẩy hàng năm, chim ô thước đến sông Ngân làm cầu cho Ngưu Lang, Chức Nữ qua sông gặp nhau.

4.Tam Điệp, dãy núi nằm trên ranh giới giữa hai tỉnh Thanh Hoá và Ninh Bình. Câu này ý nói, hồn thiếp theo mây bay ngó chàng trên đường qua núi Tam Điệp.

5.Cửu Chiêu, tên một bài dật thi được phổ nhạc cung đình, cũng là khúc nhạc vua Thuấn dùng khi mở tiệc. Ở đây ý nói, chàng chỉ say mê với công danh, không để ý đến thiếp.

6.Hưng Khánh: Theo“Chích dị kỉ, khoảng giữa năm Khai Nguyên, đời Đường, trong cung cấm nẩy bốn năm bông thược dược, nhân đem ra trồng trước đình Trầm Hương bên ao Hưng Khánh. Xưa, trai gái yêu nhau thường hay hái hoa thược dược để tặng nhau.

đang ở.

7.Người đẹp Hán Dương, phiếm chỉ người con gái đẹp ở kinh đô, nơi chàng

[blocks in formation]
« TrướcTiếp tục »