Hình ảnh trang
PDF
ePub

táng, hạ ngôn hựu nhất bản tổ khảo dữ Thuần Nhất hợp táng, chung tế chi đĩ vị tường.

Giáp chi chi Ất gia phả, ư Nguyễn huy nhân, tắc viết cựu phả ký, dữ tổ khảo hợp táng, nhi bất hiển chỉ tỷ hiệu. Nghi ư Nguyễn thị mạt, hựu giai tế chi viết vô tòng kê, viết bất khả biện.

Y! Thị hữu nhất phần thất nhận dư! Thế chi cửu cận, ký các huyền thù, thời chi biến thiên, năng vô thác nhận! Ngã cao tổ Ngọ Phong công viết : “Bách xương giai sinh ư thổ nhi phản ư thổ” Nhân sinh phúc trạch, vị hữu bất chung ư địa ấm, tri hồ thử giả, miễn thận thủ yên. Ký ngã tằng tổ Đạt Hiên công ư gia phần, các vị thạch chí, kỳ diệc mặc đã ngã cao tổ chi ý, thị ngô hậu dã.

Nhất phả nội tổ khảo tỷ chư vị, hữu thiện tất ký, kiến dư khánh sở hệ, hậu thế tử tôn, cánh gia tích luỹ đi bồi thiện cơ.

Nhất phả nội lịch đại phần mộ, tất tường sơn hướng, dục sử hậu nhân tiện nhận.

thân dã.

Nhất phủ nội tổ khảo tỷ chư vị chi hạ, phụ lục bàng thân giáo mục

Nhất phủ nội liệt tỷ chư vị, tất phụ biên kỳ sở tự xuất giả, kiến ngô gia chi thịnh, mẫu gia phúc khánh, bất vi vô trợ. Ngã tằng tổ công sở đã hữu sùng ân chi nghị.

Nhất phủ tự tổ khảo đã tiền, hữu phong tặng ân điển, tử tôn đi hậu, hữu khoa đệ thăng trục, sinh dục cát khánh, dục cải tu giả thính.

Thư pháp bổ

Nhất phả cựu phụng tiên khảo Thanh Xuyên công vi đệ nhất đại tổ, Trang Nghị công vi đệ nhị đại tằng tổ, Hy Doãn công vi đệ tam đại, thượng chí Triệu tổ Phúc Cơ công vi đệ thập ngũ đại, thị nghịch suy pháp. Kim

phụng Triệu tổ Phúc Cơ công vi sơ nhất đại, Mỹ Đức công vi đệ nhị đại, Hoằng Nghị công vi đệ tam đại, hạ chí tiên khảo Thanh Xuyên vi đệ thập ngũ đại, thị thuận số pháp.

DỊCH NGHĨA:

PHÀM LỆ

-Cụ Triệu tổ khảo là Phúc Cơ, cụ Triệu tổ tỷ là Từ Khánh, từ lâu không rõ tên hiệu và tên thuỵ. Năm Giáp Ngọ Cao tổ ta là cụ Ngọ Phong họp họ bàn bạc, kính cẩn truy đặt tên hiệu, tôn làm Triệu tổ.

-Tiên tổ khảo là cụ Mỹ Đức, trước đây hiệu là Thiện Đức, năm Giáp Ngọ, Cao tổ ta là cụ Ngọ Phong kính đổi thành hiệu ngày nay.

-Cụ Triệu tổ khảo là Phúc Cơ sinh ra Mỹ Đức, Mỹ Đức sinh ra Hoằng Nghị, Hoằng Nghị sinh ra Cẩn Tiết. Cụ Cẩn Tiết sinh hạ 4 người con trai, ngoài 2 cụ Thủ Chân, Đôn Tín, gặp loạn không biết ở đâu, còn cụ Phúc Nguyên là chi trưởng, Phúc Toàn là chi thứ. Con cháu Phúc Toàn sau lại phân chi, muốn biết thế thứ các chi, xem ở gia phả của các chi đó.

-Cụ Triệu tổ khảo và tỷ, truyền đến An Tĩnh và cụ bà là Từ Quang, là con trưởng của chi chính, Phúc Miên thờ cúng. Con cháu Phúc Miên, truyền đến Đình Thuy thì không có con nối dõi nữa.

-Cụ Nhã Thực và 2 cụ bà là Thục Đễ và Từ Nghi là con thứ trong chi chính, ông Trung Kiểu phụng thờ. Con cháu ông Trung Kiểu truyền đến Đình Đống thì không có con nối dõi nữa.

-Cụ Đan Nhạc và cụ bà là Từ Đoan huy nhân, cụ Tuyết Trai và cụ bà là Tiết Ý huy nhân, cụ Ngọ Phong và cụ bà là Trinh từ phu nhân, cộng tất cả là 4 cụ, Tằng tổ ta là cụ Đạt Hiên phụng thờ làm các vị tổ ở từ đường, trăm đời không thay đổi, gọi là Sùng Đức từ (Nhà thờ do cụ Ngọ Phong dựng vào mùa xuân năm Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng. Lúc đầu gọi là

Thế Hưởng từ, sau đổi thành Đốc Khánh từ. Năm Giáp Dần dựng bia. Vì chữ Khánh trùng với tước của Cao tổ, cho nên sau đổi là Sùng Đức từ). Nay phụng rước Đạt Hiên công và Từ Minh phu nhân phối hưởng ở đó, do cháu trưởng là Ngô Giới thờ cúng. Giới không có con nối dõi, nên em là Ngô Du thừa kế phụng thờ.

-Tên các phần mộ từ cụ Phúc Cơ, đến cụ Ngọ Phong, do Tằng tổ ta là cụ Đạt Hiên kính đặt.

-Tên phần mộ của Tằng tổ (tổ 4 đời) là Đạt Hiên, Hiển tổ (tổ 3 đời) là Trang Nghị, Hiển khảo (cha) là Thanh Xuyên, cộng 3 đời, năm Giáp Ngọ do ta kính đặt.

-Cụ Tằng thiếu tổ là cụ bà Từ Chính huy nhân, sinh ra cụ Trang Nghị ta, trước thờ ở Sùng Đức từ, Tổ khảo ta là Trang Nghị là con thứ tư của cụ Đạt Hiên, là thiếu tổ của chị ta, do cháu đích tôn Ngô Thu thờ cúng. Thu không có con nối dõi, nay thờ Từ Chính huy nhân cùng ông ta là Trang Nghị, bà ta là Từ Thuận huy nhân, tại một nhà thờ khác, tên gọi là Vĩnh Phu từ.

-Trong gia phả có ghi cụ Thuần Nhất Nguyễn huy nhân, táng cùng mộ với cụ ông là Phúc Nguyên. Ông bá tổ (ông bác) ta là Tĩnh Trai công, kế tục việc ghi chép gia phả. Xét cuốn gia phả của cụ Ngọ Phong biên chép, thấy lúc đầu nói Tổ khảo hợp táng với cụ bà Từ Thái, sau lại có bản ghi Tổ khảo hợp táng với cụ Thuần Nhất, tựu chung vẫn chưa được rõ.

Gia phả ắt phải về chi giáp, ghi về cụ Nguyễn huy nhân rằng: Trong giả phả cũ có ghi hợp táng với Tổ khảo, nhưng không chỉ rõ hiệu của cụ bà nào. Ngờ rằng dưới chữ Nguyễn Thị là không kê cứu được, không phân biện được. Tóm lại không có căn cứ, nên không thể khảo cứu được.

Ôi! Như vậy là không nhận ra ngôi mộ ấy ư? Đời từ xưa đến nay đã xa xôi khác biệt, thời thế bao lần thay đổi, có thể không nhận sai ư? Cụ Cao

tổ Ngọ Phong công nói: “Vạn vật đều từ đất sinh ra, nhưng rồi lại quay trở về đất.” Người sinh ra được hưởng phúc trạch, chưa có ai là không nhờ đất phúc chung đúc nên. Biết như vậy, cần cố gắng giữ gìn cẩn thận. Thế rồi cụ Tằng tổ ta là Đạt Hiên đã dựng bia ghi rõ trên mỗi ngôi mộ, có lẽ cụ đã ngầm lấy ý của cụCao tổ ta, mà chỉ bảo cho con cháu đời sau của ta vậy.

-Trong gia phả, tất cả các cụ Tổ khảo và tỷ, có làm việc thiện thì đều ghi lại, để biết phúc ấm để lại, từ đó mà con cháu đời sau tích luỹ thêm để bồi đắp nền thiện.

-Trong gia phả, phần mộ các đời đều ghi rõ gối và hướng, để con cháu đời sau dễ nhận.

-Trong gia phả, ở dưới các Tổ khảo và tỷ, ghi thêm cả bàng thân, để bảo cho con cháu biết mà hoà thuận với họ hàng.

-Trong gia phả, về phần các cụ bà, tất phải ghi rõ nguồn gốc, để thấy được sự phồn thịnh của họ Ngô là cũng nhờ phúc lành bên họ mẹ. Cụ Tằng tổ ta vì thế mà có lời bàn tôn sùng ân đức.

-Trong gia phả, từ cụ Tổ khảo trở về trước, có được ân điển phong tặng, con cháu đời sau có được đỗ đạt thẳng bổ, về sự vui mừng sinh nở, muốn sửa đổi cũng cho phép.

Bổ sung thêm cách ghi chép

-Gia phả cũ kính ghi tiên khảo là Thanh Xuyên công, là đời thứ nhất, ông nội Trang Nghị là đời thứ hai, cụ Hy Doãn là đời thứ ba, ngược đến cụ Triệu tổ Phúc Cơ là đời thư mười lăm, như vậy là kể ngược cách tinh. Nay kính cẩn sửa lại, cụ Triệu tổ Phúc Cơ là cụ tổ thứ nhất, cụ Mỹ Đức là cụ tổ đời thứ hai, cụ Hoằng Nghị là đời thứ ba, sau đến tiên khảo Thanh Xuyên là đời thứ mười lăm, như vậy là phép kể thuận.

吳家世譜實編

十六代孫辛卯舉人安樂知縣吳甲豆奉輯。

初一代

初 - 代肇 祖 考,吳貴公號福基先生,及妣吳貴公

正室,號慈慶徽人。

先祖世次諡號,與祖妣姓字,及其生時忌日,並

不得詳。甲午十一代孫午峰公協族請尊今號推為肇 祖。墓合葬在本社瑪奇處,不詳山向。十二代孫達軒 公上墳號,曰德墳。墳有石誌。

PHIÊN ÂM:

NGÔ GIA THẾ PHẢ THỰC BIÊN

Thập lục đại tôn Tân Mão Cử nhân An Lạc Tri huyện Ngô Giáp Đậu

phụng tập.

SƠ NHẤT ĐẠI

Sơ nhất đại Triệu tổ khảo, Ngô quý công hiệu Phúc Cơ tiên sinh, cập

tỷ Ngô quý công chính thất, hiệu Từ Khánh huy nhân.

Tiên tổ thế thứ thuy hiệu, dữ tổ tỷ tính tự, cập kỳ sinh thời kỵ nhật, tịnh bất đắc tường. Giáp Ngọ thập nhất đại tôn Ngọ Phong công hiệp tộc

« TrướcTiếp tục »